Năm A

 
 

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY A

Ed 37:12-14 ; Rm 8:8-11 ; Ga 11:1-45

 

An Phong op : Tình yêu đã chiến thắng

Như Hạ op : Sống là Đức kitô

Fr. Jude Siciliano, op : Các ngươi sẽ được hồi sinh

Fr. Jude Siciliano, op : Hãy ra khỏi mồ

Fr. Jude Siciliano, op : Cho con được phục sinh trong đức tin

G. Nguyễn Cao Luật op : Chuyến Du Hành Vào Cõi Chết

Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Sống và chết

Phaolô Phạm Chung Kiên op : Ta là sự sống lại và là sự sống

Đỗ Lực op : Ðường Vào Cõi Sống

Fr. Jude Siciliano, op : Người gọi ta ra khỏi huyệt và nơi chết chóc

Fr. Jude Siciliano, op: Hãy tín thác vào Đức Giêsu Kitô


 


An Phong op

Tình yêu đã chiến thắng
Ga 11:1-45

Nghe tin ông La-da-rô – một người vẫn được Đức Giêsu thương mến – đang đau, Đức Giêsu vẫn không tỏ vẻ gì vội vàng. Người vẫn thản nhiên như không có gì xảy ra. Nhưng ông La-da-rô đã chết, được an táng trong mồ, và Đức Giêsu chỉ có mặt tại Bê-ta-ni-a bốn ngày sau đó – thời gian đủ để xác nhận cái chết thực sự. Khi làm cho La-da-rô sống lại, Đức Giêsu muốn cho người khác hiểu rằng Người có quyền trên cả cái chết. Người chính là sự sống lại và là sự sống và “là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa"(11,4).

Trước khi xảy ra câu chuyện này, Đức Giêsu đã rút lui sang bên kia sông Gio-đan, vì người Do Thái tìm cách bắt Người. Thế nhưng, vì tình bằng hữu, và nhất là, vì "giờ” đã đến, Đức Giêsu quyết định quay trở lại miền Giu-đê, tại miền đất người ta đang chống lại Người và tìm cách giết Người. Những sự kiện xảy ra mấy ngày trước đây, các Tông đồ đều chứng kiến, nên lúc này, các ông lo sợ về sự an toàn tính mạng của chính các ông cũng như của Đức Giêsu. Các ông đã tìm cách can ngăn Người bằng cách gợi lại những biến cố mới xảy ra, nhưng Đức Giêsu vẫn cương quyết, và các ông đành theo Người, biết trước rằng nguy hiểm đang chờ đón.

Quả thế, việc Đức Giêsu trở lại miền Giu-đê là một chuyến du hành vào cõi chết, một cuộc mạo hiểm. Cơn bệnh và cái chết của người bạn, nỗi đau của những người thân, sự cứng lòng của những người láng giềng, đó là những tiếng cười nhạo của Địch Thủ cuối cùng mà Người phải chiến thắng.

Như thế, qua chuyến du hành này, Đức Giêsu bày tỏ điều thâm sâu nhất của chính Người, đồng thời cho thấy Địch Thủ nguy hiểm nhất của con người là sự chết, và Đức Giêsu đã chiến thắng. Chiến thắng bằng cái chết của Người và sự phục sinh từ cõi chết.

Và, chuyến du hành này cũng chứng tỏ Đức Giêsu hằng sống hơn bao giờ hết. Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng ban sự sống cho những kẻ được Người yêu mến. Người ngỏ lời với những kẻ sợ không dám liều mạng sống hay những kẻ muốn giữ mạng sống : Thầy là sự sống lại và là sự sống. Điều này có nghĩa là Đức Giêsu không chỉ là người xô dạt tảng đá lấp cửa mồ của người khác, kể cả của Người. Phục sinh có nghĩa là chính con người của Đức Giêsu, là đem lại sự sống : “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người” (1 Ga 5,11).

Ngày hôm nay, chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã chịu chết và đã phục sinh, và điều này là hình ảnh tượng trưng cho cuộc vượt qua từ sự chết sang sự sống, cuộc vượt qua mà mọi tín hữu sẽ phải trải qua. Thiên Chúa của chúng ta là Đấng mở tung cửa các ngôi mộ. Đức Kitô là Đấng đứng giữa đường dẫn đến nghĩa trang, Người bảo đảm cho chúng ta về cuộc vượt qua từ cái chết sang sự sống.

Ngày nào còn có người đau khổ trên trái đất này

Ngày nào còn những gương mặt tan nát đau thương

Ngày nào còn những trẻ thơ
chết trên cánh tay bất lực của mẹ chúng.

Ngày nào còn những người bị đàn áp, chết đói;
còn những kẻ bị hạ nhục, tra tấn.

Ngày nào còn cái chết rập rình đó đây

 

Chúa Giêsu vẫn tiếp tục chết : Ngài chết vì yêu thương.

Chúa Giêsu chết trên thập giá : Tình yêu và Sự Chết.

Và chúng con tiếp tục xây dựng thế giới này,

 

Lạy Chúa Giêsu,

Vâng, mọi sự đã hoàn tất

Tình Yêu đã chiến thắng.

Jacques Leclercq


Như Hạ op

SỐNG LÀ ÐỨC KITÔ
Ga 11:1-45

Sống là một hồng ân. Chỉ khi nào mất mát hay bị đe dọa, sự sống mới nổi rõ như một giá trị lớn lao. Hôm nay Ðức Giêsu sẽ mạc khải tất cả giá trị đích thực của sự sống trong tương quan với Thiên Chúa.

NGUỒN SỐNG.

Khi còn tại thế, Ðức Giêsu sống giữa những tương quan khác nhau. Trong các tương quan, có lẽ Người gắn bó với gia đình Maria và Matta sâu đậm nhất. Sâu đậm đến nỗi đứng trước các chết của Lazarô, "Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến." (Ga 11:33) và "Ðức Giêsu liền khóc." (Ga 11:35) Tuy nhiên, Người không bị tình cảm đè bẹp trong nỗi thất vọng. Người vẫn tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa. Trái lại, chị em Matta đã không kìm chế nổi cơn thất vọng, mặc dù vẫn tin tưởng nơi Ðức Giêsu. Cả hai đều nhất trí : "Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây, em con đã không chết." (Ga 11:21, 32) Nhưng vì thực tế quá bi đát, hai cô không dám xin Thầy làm phép lạ và cũng không dám tin Thầy sẽ trổ tài trong trường hợp đặc biệt này. Ðó là lý do tại sao cô Matta nói : "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết," (Ga 11:24) ngay sau khi Ðức Giêsu đã quả quyết : "Em chị sẽ sống lại !" ( Ga 11:23) Ðức Giêsu và cô Matta đều dùng chữ "sẽ". Nhưng cô hiểu Lazarô sẽ sống lại trong thời cánh chung. Còn Ðức Giêsu muốn cho cô và mọi người thấy tương lai không quá xa như thế. Lời hứa sẽ được thực hiện ngay lúc này. Nói khác, Người muốn cho mọi người thấy Tin Mừng luôn mang chiều kích "hôm nay".

Vượt ngoài sức tưởng tượng, hai cô kinh ngạc trước việc Ðức Giêsu trả lại Lazarô cho gia đình và xóm làng. Từ tình trạng tuyệt vọng, hai cô đã nhận lại tất cả những gì đã mất. Còn niềm vui nào lớn hơn ? Niềm vui phát xuất từ niềm tin nơi Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống. Trước khi truyền cho anh Lazarô ra khỏi mồ, Ðức Giêsu đã sốt sắng hướng về Chúa Cha như nguồn động lực khiến Người có thể quyết liệt hành động. Tin Mừng thuật lại khi đó "Ðức Giêsu ngước mắt lên và nói : 'Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.'" (Ga 11:41) Từ xác tín về tình yêu và sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ðức Giêsu đã mạnh dạn "kêu lớn tiếng : 'Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!'" (Ga 11:43) Lời Chúa hoàn toàn ứng nghiệm từng nét từng chữ.

Làm sao lời Chúa có sức mạnh truyền tử thần phải buông tha con người ? Ðúng là tình yêu mạnh hơn sự chết ! Lời Thiên Chúa đã giải thoát anh Lazarô khỏi ách tử thần. Những khăn vải trên người anh cũng đủ diễn tả cảnh gông cùm anh vừa trải qua. Ðức Giêsu muốn giải thoát anh hoàn toàn. Thế nên, Người nói với những người chung quanh : "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi." (Ga 11:44)

Ðức Giêsu đã đưa anh trở về cuộc sống bình thường. Anh sung sướng vô cùng khi nhìn lại các chị và những người hàng xóm. Hơn ai hết, anh thấy sự sống như một hồng ân Thiên Chúa. Hồng ân đó hoàn toàn là dấu chỉ của lòng Chúa thương xót. Nhưng đồng thời, đó cũng là kết quả của niềm tin "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng phải đến thế gian" (Ga 11:27) "để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa." (Ga 11:4) Cô Matta đã tuyên xưng như thế. Cô đạt tới tột đỉnh niềm tin. Tuy thế, theo phản ứng tự nhiên, cô vẫn ái ngại trước lời Thầy đề nghị di chuyển phiến đá lấp cửa mồ (x. Ga 11:39) Khi anh Lazarô sống lại, cô đã "thấy được vinh quang của Thiên Chúa" (Ga 11:40) nơi sức mạnh Lời Chúa. Ðúng như Chúa đã phán với Matta : "Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống." (Ga 11:25) Lazarô đã trở thành chứng nhân sống động nhất cho "trung tâm của niềm tin Kitô giáo" (Dictionary of Fundamental Theology 1995:311) : "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống." (Ga 11:25)

SỰ SỐNG : MỘT GIÁ TRỊ TUYỆT ÐỐI.

Sự sống là một giá trị tuyệt vời và cao cả nhất trên mặt đất. Nhưng giá trị đó đang tiêu trầm và băng hoại. Những nhóm người ủng hộ phá thai, đồng tính luyến ái đang hoạt động khắp nơi để chống lại con người. Liên hiệp Kế Hoạch Hóa Gia Ðình Hoa Kỳ đã giết 197,070 trẻ chưa sinh năm 2000, tăng 7.8 phần trăm so với năm 1999. Càng ngày Liên Hiệp càng có nhiều phương tiện tài chánh thực hiện việc phá hủy sự sống con người. Báo cáo tài chánh năm 2001 tổng cộng Liên Hiệp chi tiêu 672.6 triệu Mỹ kim. Trong đó 28 phần trăm do tư nhân đóng góp, chính phủ 30 phần trăm. Ông Douglas R. Scott, Chủ tịch Hội Quốc Tế Quyết Ðịnh Phò Sự sống, đã kêu gọi Liên hiệp Kế Hoạch Hóa Gia Ðình Hoa Kỳ chấm dứt "việc gia tăng khủng bố các trẻ chưa sinh." (CWNews 12/03/02) Mặc dù rất nhiều phương tiện ngừa thai đã tung ra, nạn phá thai vẫn không giảm bớt. Vấn đề kế hoạch hóa gia đình ngày càng thêm tồi tệ. Một giải pháp nông cạn không thể giải quyết vấn đề. Xã hội sẽ không bao giờ có được giải pháp tốt đẹp nếu không tìm cách bảo vệ sự sống như một giá trị tuyệt đối. Tuyệt đối vì nguồn gốc và cứu cánh sự sống là Thiên Chúa. Nhất là, vì đã được phục hồi trong Ðức Giêsu Kitô, nên sự sống trở thành vô giá.

Ðể phục hồi sự sống, cần phải đặt tất cả niềm tin nơi Ðức Kitô. Thật vậy, chỉ Ðức Giêsu mới "là sự sống lại và là sự sống" ! Không thể tìm được năng lực phục hồi sự sống nơi nào khác. Kết hiệp với nguồn mạch sự sống này, con người sẽ có khả năng hoạt động hữu hiệu. Quả thế, "chỉ những người cầu nguyện mới có thể là tác giả những hoạt động xã hội và tông đồ hiệu lực. Ước chi Thánh Thể, nguồn mạch bất tận phát xuất sự hiệp thông và quyết tâm tông đồ, luôn nằm tại trung tâm mọi sự." (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit, 08/03/2002) Không kết hiệp với Ðức Giêsu trong Thánh Thể, chắc chắn ÐGH đã không thể có tiếng nói mạnh mẽ thế giới như hôm nay. Thánh Thể là nguyên nhân hiệp nhất toàn thể nhân loại. Chính khi kết hiệp với "sự sống lại và sự sống" đó, con người mới hiểu được giá trị sự sống và tìm được đường lối phục hồi những giá trị và liên kết những khác biệt trong sinh hoạt nhân loại.

Ðó là một niềm tin đích thực của Kitô hữu. "Niềm tin tôn giáo đích thực là một nguồn suối bất tận đem lại sự kính trọng lẫn nhau và sự hòa hợp giữa các dân tộc; thực vậy, đó là chủ lực chống lại bạo động và xung đột." (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) Nếu con người không tìm cách nào đối thoại với anh em đồng loại, nhân loại sẽ bị tiêu diệt. Quả thực, "cuộc đối thoại giua các tôn giáo và các nền văn hóa là một phần cốt yếu trong tiến trình tìm kiếm hòa bình." (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) Mặc dù hòa bình nhân loại luôn bị đe dọa, nhưng vẫn có "những dấu chỉ niềm hi vọng đích thực" (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002) trong các cuộc đối thoại văn hóa và tôn giáo đó đây. Các cuộc đối thoại đó nhằm khám phá "những con đường thực hành cổ động sự hiểu biết giữa các dân tộc và tạo lập nền tảng đối đầu với những vấn đề đang đè nặng gia đình nhân loại vào lúc khởi đầu kỷ nguyên này." (ÐGH Gioan Phaolô II, Zenit 11/03/2002)

Hi vọng đã vươn lên với tinh thần con người. "Ánh sáng muôn dân" sẽ giải thoát nhân loại khỏi những chế độ hà khắc, bất công, ích kỷ và đầy thành kiến nặng nề. Tương quan nhân loại sẽ tràn ngập niềm vui và hi vọng khi mọi người đều sống niềm tin đích thực của mình. Riêng Kitô hữu luôn xác tín "sống là Ðức Kitô". Chỉ Ðức Kitô mới đem lại sự sống đích thực cho nhân loại mà thôi !


Fr. Jude Siciliano, OP.

Các ngươi sẽ được hồi sinh
(Ga 11, 1-45)

Thưa quý vị.

Chết chóc bao giờ cũng là cảnh mất mát tang thương. Cái chết của người thân ruột thịt lại còn là nỗi đau xót khôn nguôi. Ðó là điều mà hai chị em Mácta và Maria làng Betania phải chịu đựng trong bài Phúc âm hôm nay. Tuy nhiên có một hình ảnh vô cùng hùng vĩ làm cho chúng ta hết sức ngỡ ngàng, cảm động : Thiên Chúa đứng ngay trước cửa mộ của Ladarô. Thế thì ông ta chết thế nào được ? Thần chết còn có quyền gì trên thân xác ông ta ? Thân xác ấy có được phép thối rữa không ? Và câu trách cứ của Mácta xem ra thừa thãi : Nếu Thày có mặt ở đây thì em con đã không chết. Ðồng thời chúng ta phải khâm phục lòng tin của bà : Tuy nhiên, bây giờ con biết bất cứ điều gì thày xin cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho thày!

Trong cuộc hành trình về cõi vĩnh hằng thì ngôi mộ là điểm dừng chân cuối cùng của mọi người. Một hình ảnh vô cùng bi thảm. Mặc dù ở các nghĩa trang nước Mỹ giàu có này, người ta cố gắng làm giảm bớt vẻ bi thảm đó. Nhưng nó vẫn là bi thảm. Người ta đào một lỗ thật sâu, mang hết đất đá để vào một nơi. Trải một thảm cỏ xanh nhân tạo, kiểu như các thảm cỏ bằng sợi đan trong các sân vận động thể thao trong nhà. Ðặt một khung thép và các sợi dây thừng to, chắc lên trên lỗ mới đào để đỡ quan tài. Gia đình bà bạn bè còn ngồi trên xe ngoài đường, xa nơi làm việc, cho đến khi các đô tùy trang hoàng xong cảnh trí bằng hoa tươi. Nếu trời mưa, tuyết, thì còn phải dựng mái che. Sau đó, mọi người được mời đến mộ, các đô tùy lui ra ; hút thuốc, uống trà. Lễ nghi tiễn biệt bắt đầu, mỗi người cầm một cành hoa tươi đặt lên trên quan tài và nói mấy lời từ giã thân nhân rồi trở về chỗ cũ. Bất chấp những né tránh sầu thương như thế, chúng ta vẫn biết chúng ta đang làm gì, ngắm gì : nơi ở cuối cùng của một người thương yêu, đã từng chung sống với chúng ta, chia vui sẻ buồn trong biết bao năm trường. Chẳng mấy phút nữa, các đô tùy sẽ vùi họ xuống lòng đất, từ nay vĩnh viễn không khi nào còn được trông thấy người thân nữa !

Ở những quốc gia nghèo khó hơn, tức thế giới thứ ba, người ta chỉ đơn giản bó người thân yêu bằng những mảnh vải thô, đặt vào quan tài bằng gỗ, tự làm lấy, khiêng ra đồng trống, bới đất, vùi xuống là xong. Không hoa không nến. Tang tóc, mủi lòng, còn tăng lên gấp bội. Dù thế nào đi nữa, thì lòng đất vẫn là kẻ chiến thắng và con người ở giây phút này yếu đuối và dễ bị tổn thương biết bao ! Bài đọc kinh thánh thứ nhất và bài Phúc âm công nhận sự tang thương đó nhưng đồng thời cho chúng ta những lời an ủi, bảo đảm một cuộc sống vĩnh cửu. Mặc dầu chết, bị vùi xuống lòng đất nhưng chúng ta không thất vọng, không đơn côi : "Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel." Thiên Chúa luôn luôn hiện diện ở mộ huyệt với chúng ta và ban lời hằng sống. Chỉ Thiên Chúa mới có đủ quyền bính và uy tín để công bố những lời hứa hẹn như vậy. Ngoài ra, chẳng thần linh nào có thể làm được. "Hỡi dân Ta …" điều đó rõ ràng chắc chắn. Hôm nay, trước mộ Ladarô Chúa Giêsu cũng phán như vậy "Hỡi Ladarô ! Anh hãy trỗi dậy …" Thần chết với tất cả mọi sự bi thảm và logic của hắn không phải là tiếng nói cuối cùng trên số phận con người. Tiếng nói cuối cùng là Thiên Chúa. Cụ thể là Ðức Kitô Giêsu như trong Tin Mừng vừa nghe đọc xác nhận.

Khi thay mặt Thiên Chúa viết những lời hứa trên đây, tiên tri Ezekiel không có chủ đích yên ủi một gia đình, hay các bạn bè của ông đang than khóc người thân qua đời mà là toàn thể một dân tộc đã mất nước. Ðền thờ bị phá hủy, lễ nghi tôn giáo bị cấm đoán. Thất vọng, ê chề và cay đắng. Ông an ủi những người đồng bào đang đi đày ở Babilon sau khi thành Giêrusalem bị cướp phá (587 trước Công Nguyên). Ông dùng cảnh tượng những chiếc xương khô được sống lại để khơi dậy hy vọng dân tộc ông sẽ được khôi phục nhờ Thần khí và lời Thiên Chúa. Ông chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Ngài là chủ thể hành động. Dù rằng viễn tượng của Ezekiel không phải là sự sống lại trong ngày sau hết, nhưng nội dung bài đọc thứ nhất hôm nay có thể hiểu cho những ai đã bị tội lỗi làm xa lìa Thiên Chúa, kiệt quệ vì cảnh tù đày trong vương quốc Sa tan. Liệu Thiên Chúa có thực hiện được điều tuyệt vọng đó ! Ðược lắm - Như Ngài đã hứa trong Ezekiel : "Ta sẽ đặt Thần khí Ta trên các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh". Như vậy thì chúng ta còn hy vọng được gặp lại anh chị em chúng ta đã xa lìa Thiên Chúa vì bất cứ lý do gì và ông bà, cha mẹ, thân nhân đã an nghỉ trong Chúa cũng sẽ được sống lại.

Tuy nhiên, bấy nhiêu đó chỉ là nói chung chung, trừu tượng. Nội dung bài Phúc âm hôm nay dẫn chúng ta đến sự kiện cụ thể hơn, cá nhân hơn : Ladarô được phục sinh. Ông ta đã thực sự chết. Chính bà Mácta chị ông xác nhận : "Thưa thày, nặng mùi rồi, vì đã bốn ngày." Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể lạ chịu bó tay trước cái chết của một người bạn thân. Ngài đã từng lui tới nhà ba chị em, quen thuộc như lui tới nhà riêng của mình . Ngài đã từng tuyên bố với người Do thái : Thật, tôi bảo thật các ông: Giờ đã đến - và chính lúc này đây - giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa. Ai nghe thì sẽ được sống (Ga 5,25). Ngài không thể đứng bất lực trước ngôi mộ của Ladarô. Ngài phải thực hiện phép lạ cho ông trỗi dậy mặc dù phép lạ đó đòi hỏi một hy sinh rất lớn. Thế lực đền thờ sẽ gia tăng thù ghét Ngài. Thậm chí âm mưu để trừ khử Ngài. Nhưng bạn của Ngài không thể ở mãi trong quyền lực của sự chết. Ngài phải giải thoát ông. Và ông đã được phục sinh, đi ra khỏi mồ chôn, chân tay còn quấn những vải liệm. Người Do thái quyết định dứt khoát giết Ngài và luôn cả Ladarô (12,10)

Nghe chuyện này, chúng ta được an ủi, khích lệ vì chúng ta cũng là những người bạn của Chúa Giêsu. Chúng ta đã từng tin cậy vào lời của Ngài, sống theo những điều Ngài giảng dạy, cho nên dầu có phải đứng bên những huyệt mả chờ sẵn, chúng ta vẫn vững lòng tin những gì xảy đến cho Ladarô, sẽ được thực hiện nơi bản thân chúng ta. Chính Chúa Giêsu là người mang trách nhiệm nhiều nhất trong câu chuyện này. Ngài là nhân vật chính đưa ra mọi quyết định. Không ai có thể hối thúc được Ngài, ngay cả những lời cầu xin khẩn thiết của chị em Mácta mà Maria. Nhưng Ngài sẽ không thể là bạn tốt, nếu vẫn tỏ ra vô can ! Cho nên Ladarô đã sống lại và chúng ta cũng sẽ phục sinh. Thời gian là bao nhiêu lâu ? Không ai biết, dẫu rằng chỉ cần một lời, là kẻ chết được sống. Có nhiều cái chết : Chết thể lý, chết tinh thần : Thất nghiệp, xì ke, ma túy, đĩ điếm, nghiện ngập, lừa đảo, âm mưu ma quỷ … và tất cả đều cần quyền phép Thiên Chúa để trỗi dậy. Tất cả đều phải được trả giá bằng đau khổ của Chúa Giêsu, thậm chí bằng cái chết của chính Ngài. Cho nên mùa Chay này chúng ta không thể dửng dưng, giữ thái độ của kẻ bàng quang.

Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ chứng kiến cuộc trả giá đó. Tức cái chết bi thảm của Ngài. Cái chết tàn nhẫn nhất trong lịch sử. Chết oan ức, tức tưởi. Người ta gán cho Ngài những tội bịa đặt rồi hô lớn : Người này có tội, giết đi. Ðó là tính phản loạn của loài người trước Thượng đế. Cái chết về tinh thần. Ngày nay nó vẫn còn tiếp diễn trên mặt địa cầu : Thù oán, chiến tranh, bất khoan dung, bạo lực tôn giáo đưa đến trừ khử lẫn nhau, hủy diệt hàng triệu sinh mạng vô tội, mà người ta dùng từ thanh lịch để mô tả, gọi là những "thương vong cần thiết". Thật ghê tởm đối với nhân loại còn lương tri ! Hàng ngày trên màn ảnh TV chúng ta được chứng kiến các đám tang ở Trung Ðông, quê hương của Chúa Giêsu. Ðám tang của Ngài ngày xưa cũng thế thôi. Người ta quấn thân thể Ngài bằng vải liệm, rồi đặt vào ngôi mộ. Một nhóm thân nhân, bạn hữu đứng phía ngoài, dựa vai nhau khóc. Không ai có thể nói lên dù là một lời. Nhưng mọi sự không phải là đã chấm dứt. Thượng đế sẽ viếng thăm ngôi mộ này, phán một lời, Thần khí sẽ nâng Ngài trỗi dậy. Một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ, tinh khôi như bình minh ló dạng. Chẳng ai có thể tưởng tượng nổi. Mấy phút trước đây chỉ là một xác chết đợi thối rữa. Thế thì, liên kết với cái chết của Ngài trong bí tích rửa tội, tất cả chúng ta dầu sống, dầu chết đều được ban cho hy vọng sẽ cùng được sống lại với Ngài.

Cứ như Phúc âm của thánh Gioan chẳng phải sau cái chết chúng ta mới có cuộc sống mới. Nó đã bắt đầu từ khi chúng ta chịu phép Thánh tẩy (3,5). Chẳng phải đợi đến khi thở hơi cuối cùng chúng ta mới được tiếp nhận mầm sống mới vĩnh cửu, mặc dầu hàng ngày khi đi qua các nghĩa trang, chúng ta ngắm nhìn vô số những ngôi mộ hoang dã, và lúc nào đó, thân xác chúng ta cũng sẽ bị chôn vùi dưới một nấm mồ vô chủ. Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ gọi tên chúng ta từng người một bước ra khỏi số phận chết chóc đau thương : Bởi Ngài là sự sống lại và là sự sống. Bất cứ ai tin vào Ngài, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ngài sẽ chẳng phải chết bao giờ (11,25). Và chúng ta sẵn sàng trả lời Ngài như cô Mácta : "Vâng, lạy Thày chúng con tin Thày là Ðức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống. Ðấng phải đến thế gian" để ban cho nhân loại sự sống vĩnh hằng. Amen.


Fr. Jude Siciliano, OP

Hãy ra khỏi mồ
(Ga 11, 1-45)

Thưa quý vị,

Bất cứ những ai đọc chương 37 sách tiên tri Edekien đều cảm thấy rùng mình, sởn ốc. Ông trông thấy một thung lũng đầy xương khô. Thiên Chúa khiến ông đi dọc đi ngang giữa những xương mà tuyên sấm : “Các xương khô kia ơi, lắng nghe lời Đức Chúa.” Tức thì các xương xích lại gần nhau, trở thành da thịt, rồi những con người sống động. Bài đọc 1 hôm nay ở cuối chương đó để giải thích thị kiến mà vị tiên tri ấy đã thấy. “Bấy giờ Người phán với tôi : hỡi con người, các xương đó là toàn thể nhà Israel. Này chúng vẫn nói : xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan. Chúng tôi đã rồi đời. Chính vì thế mà ngưoi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng : Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau : Hỡi dân ta, này chính Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi, sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel.”

Tình trạng của dân tộc Do thái trong cuộc lưu đày Babylon chẳng khác gì thung lũng đầy xương khô đét : không đền thờ, không tư tế, không hy vọng, ở tản lạc giữa các dân ngoại. Họ không còn là một dân tộc nữa. Nhưng là những nhóm người lang thang trên đất lạ, tôn thờ những ngẫu tượng ngoại bang. Nếu đem so sánh với hiện trạng chúng ta ngày nay, thì không khác nhau là mấy. Chúng ta cũng di cư khắp đó đây trên những lục đại mênh mông, tiếp xúc thường xuyên với những nền văn hoá xa lạ, các phong tục tập quán vô luân. Nó cũng tương tự điều kiện sống của các linh hồn tín hữu về mặt thiêng liêng trong Mùa chay thánh này. Chúng ta cũng đã mất lòng nhiệt thành và sùng mộ, trở nên khô khan nguội lạnh sau nhiều năm theo đạo. Chúng ta chẳng còn chút sinh khí nào trong các buổi cầu kinh nguyện ngắm, chỉ trơ trơ như những chiếc xương khô.

Lúc tiên tri Edekien nhìn vào đống xương, Thiên Chúa hỏi : “Hỡi con người, liệu những xương khô này có hồi sinh được không ?” Dĩ nhiên, vị ngôn sứ chỉ còn biết lắc đầu thất vọng, bởi vì theo thường tình thì làm sao xảy ra như vậy được. Những người nóng tính có lẽ còn dơ cả hai tay lên trời, tỏ dấu đầu hàng. Tuy nhiên, ngôn sứ trả lời : “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó.” Đối với quyền phép loài người, việc làm cho kẻ chết sống lại quả là viển vông, không khi nào có thể thực hiện được, huống chi là các xương khô, rải rắc khắp cánh đồng ! Toàn thể cánh đồng toàn xương cốt khô đét làm sao sống lại ? Tuy nhiên, vị tiên tri đã không dứt khoát xác quyết là không thể được. Ông nói : “Lạy Đức Chúa, chính Ngài mới biết điều đó.”

Rồi ông vâng lời Thiên Chúa đọc lời sấm trên đống xương. Quả vị tiên tri có một Đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa toàn năng. Ông đã không nghi nan Thiên Chúa có thể thực hiện những điều bất ngờ. Các xương kia chưa phải là tận cùng của kiếp sống con người. Chúng ta chưa có quyền hoàn toàn thất vọng ! Đúng vậy, có sự chuyển động và các xương xích lại gần nhau, ăn khớp với nhau, gân cốt và da thịt mọc ra. Thiên Chúa truyền cho Edekien thổi sinh khí vào chúng và đống xương hồi sinh, đứng thẳng lên thành một đạo quân lớn, đông vô kể (37, 10).

Điều này cũng đúng đối với các linh hồn khô khan trong Mùa chay thánh thiện này, nếu họ biết lắng nghe lời Thiên Chúa mà ăn năn hối cải. Thực tế, dân tộc Israel đã phục hồi từ kiếp nô lệ Babylon, được Thiên Chúa đưa lên khỏi huyệt, trở về đất hứa và hợp thành một dân tộc hùng mạnh. Thiên Chúa gọi họ là “Dân của Ta”, nghĩa là dân đầy Thần Khí Ngài. Họ sẽ thực hiện những công việc của Ngôi Lời ban sự sống. Trước đó, không ai có thể tưởng tượng nổi họ sẽ họp thành một dân tộc, khi mà Nabucônôsô phân tán họ khắp đế quốc Ba tư. Điều mà Thiên Chúa làm khi sáng tạo vũ trụ thì Ngài lại thực hiện cho dân tộc Do thái khi xưa và cho chúng ta hôm nay. Những kẻ đã chết về phần tâm linh, tựa như những chiếc xương khô vung vãi khắp thung lũng tử thần, thì nhờ Thần Khí Chúa lại được sống đàng hoàng. “Ta sẽ đặt Thần Khí Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh.” (37, 14). Có lẽ quý vị đã nhìn ra lý do sách Edekien được chọn đọc trong buổi phụng vụ hôm nay. Nó liên quan đến chuyện của ông Lazarô, một người đã chết thối rữa bốn ngày. Nhưng “Lời” của Thiên Chúa tuyên phán trên ông : “Lazarô, hãy ra khỏi mồ.” Và Phúc âm kể : “Người chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải, mặt còn phủ khăn.” Một công việc kinh thiên động địa, không ai có thể thực hiện trừ một mình Thiên Chúa.

Nhưng Thiên Chúa thật sự ở đâu khi người ta cảm thấy “rồi đời”, khi hy vọng không còn đất sống ? Khi sức lực đã cạn kiệt ? Khi người ta buông xuôi tất cả ? Tiên tri Edekien trả lời : “Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, sẵn sàng nói với chúng ta và thực hiện những công việc chúng ta không thể tự thân làm nổi". Đó là quyền năng của Lời Chúa. Những xương khô và mồ mả của nhân loại không mằm ngoài hơi thở của Đức Chúa Trời. Thần Khí của Ngài sẽ xâm nhập cả vào những nơi mà chúng ta sợ hãi không dám đến gần và vực dậy những chi mà nhân loại coi như tan thành tro bụi. Nếu ai đó phải hỏi vị ngôn sứ : “Khi nào sự việc đó xảy ra ?” thì Edekien sẽ trả lời : “Đó là thời gian của Thiên Chúa. Mỗi giây phút đều đầy tràn ân phúc. Hãy tỉnh thức chờ đợi, ngó thẳng ra từ ngôi mộ đau thương của mình và dõi theo Thần Khí Thiên Chúa đang tiến đến với bạn.”

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta có thể liệt kê vô số những ngôi mộ mà mình từng bị giam hãm, những nơi chốn lưu đày, những hố sâu tự đào cho chính bản thân. Những hoàn cảnh vượt quá khả năng, sức lực chịu đựng hay đối đầu, những chia rẽ, những hiểu lầm hoặc những dị biệt quá đáng do ngu xuẩn, dốt nát, kiêu căng của con người gây nên. Chúng ta có thể ngồi đếm những cơn lốc xoáy của đời sống đã từng đè bẹp mình, những lực lượng đối kháng không tương xứng mình phải đối mặt. Những cú thụi, cú đấm, những bầm dập, những vật lộn đấu tranh do thân nhân, bạn bè làm nên vô tình hay hữu ý. Mặt khác có khi chúng ta tự mình đi vào những ngôi mộ giết người do lỗi lầm của mình, bỏ ngoài tai lời cảnh báo của Lời Chúa, từng bước làm những quyết định chẳng lợi lộc chi cho linh hồn, dấn thân vào những ăn chơi trác táng, vừa ý xác thịt, rượu chè, trai gái, dâm ô, nghiện ngập. Ôi nhiều vô kể những ngôi mộ xương khô mà con người vướng mắc vào. Nếu không ơn Chúa giúp đỡ, làm sao thoát khỏi ? Tạ ơn Thiên Chúa, sự phục sinh của Đức Kitô ban cho loài người hy vọng.

Đối với các nhà giảng thuyết, các mô phạm gia, các nhân viên từ thiện bác ái, sau bao nhiêu năm miệt mài với công việc cứu trợ, có lúc phải ngỡ ngàng vì không thấy biến chuyển chi hết trong tình hình xã hội loài người. Mọi sự vẫn y nguyên như cũ, có thể còn tồi tệ hơn. Chúng ta cảm thấy thất vọng, giống như dân Do thái lưu đày ở Babylon, đơn độc và tối tăm. Nhiều vị bị cám dỗ bỏ cuộc nói : “Ích chi nữa đâu ? Tôi chán ngấy công việc vô ích này ! Thay đổi loài người quả khó khăn hơn phá núi, rời non !” Chúng ta cố gắng cải tạo thế giới, thay đổi cái nhìn của nó về giàu nghèo, sang hèn, tội phúc. Chúng ta nghiêng về những số phận long đong, ngoài lề, dễ bị tổn thương trong khi thiên hạ tẩy chay, khinh bỉ họ. Chúng ta đã tiêu tốn ngày tháng trong những công việc như vậy và rồi phải ngạc nhiên đã chẳng làm nên “cơm cháo” gì !

Có chi khác biệt trong xóm làng, xã hội và thế giới ? Các cuộc rút lui vào thinh lặng sẽ cho phép chúng ta thấy rõ hơn mọi sự. Nhưng ở đây tôi không muốn nói đến loại rút lui đó, nhưng là về sự rút lui vì thất bại, như trường hợp sĩ quan, binh lính, quân đội thất trận. Ngôi mộ của sự cam chịu xem ra rất thương tâm. Nó là địa điểm xa chiến trường, người ta có thể nằm ngồi nguỵ trang và chữa lành các vết thương hôi thối của mình. Tạ ơn Thiên Chúa, ngôn sứ Edekien an ủi chúng ta rằng : Thiên Chúa nhìn thấy hết mọi sự. Ngài thấy những dấu hiệu của tử thần trên mình chúng ta và Ngài vội vàng đến cứu giúp, đúng thời, đúng lúc, cương quyết và bí nhiệm. Xin hãy nghe lòng ước muốn đó trong giọng nói của Chúa Giêsu lúc hồi sinh người em của Maria và Martha : “Lazarô, ta truyền cho anh ra khỏi mồ !” (Ga 11, 43)

Thánh Phaolô gọi thứ ngôi mộ vô hình này bằng một tên khác, khi thánh nhân nói đến công việc của xác thịt. Nghĩa là chúng ta nghĩ, chúng ta quyết định hoàn toàn dựa vào những lý do xác thịt không màng chi đến đường lối của Phúc âm. Thánh nhân cảnh cáo rằng Thiên Chúa biết rõ chúng ta, biết rõ những yêu thích của xác thịt, mà xác thịt sẽ đưa đến sự chết. Do đó, chúng ta là dân mồ mả. Nhờ mặc khải của Đức Kitô, Thiên Chúa ban cho loài người não trạng hoàn toàn mới để suy nghĩ và hành động, dựa trên căn bản của nếp sống mới. Nguồn sống mới của chúng ta lúc này chính là Chúa Giêsu và tinh thần của Ngài trong chúng ta. Đó là lối diễn tả của thánh Phaolô điều mà tiên tri Edekien đã nói trong sách của ông : Thiên Chúa sẽ mở huyệt cho dân Israel, sẽ đưa Israel lên khỏi mồ, sẽ đặt Thần Khí Ngài vào trong dân và dân được hồi sinh (37, 14).

Nghĩa là thánh Phaolô muốn nói : Nếu chúng ta chỉ sống cho mình, bằng sức lực của mình, chiều theo ý muốn của xác thịt thì chẳng khác nào chọn cho mình những mấm mồ không có sự sống. Chúa Giêsu đã gọi chúng ta ra khỏi mồ, ban cho chúng ta Thần Khí để nhìn rõ cuộc đời này thực tế lớn hơn chúng ta có thể mường tượng. Và cuộc sống Chúa ban không chỉ gồm bản thân và bạn bè, nhưng còn cả gia đình nhân loại. Lắng nghe Lời Chúa, lãnh nhận tinh thần Đức Kitô sẽ mở rộng tầm nhìn của chúng ta về cuộc sống : Cuộc sống trong toàn thể vẻ đẹp và vĩ đại của nó, trong những điều kỳ diệu lớn nhỏ, trong cộng đồng dấn thân cho lời ban sự sống, cho hành động cứu độ. Cuộc sống trong tổng thể các sắc dân và văn hoá, trong môi trường và vũ trụ chung quanh chúng ta. Khi chúng ta thoát ra khỏi mồ với sức sống của Thiên Chúa trong mình, chúng ta sẽ xem tỏ các nguy hiểm, các cám dỗ, các lôi kéo của thế gian mà xa tránh. Quả thật, cuộc sống giữa trần ai đầy rẫy mỏng dòn và chông gai. Mỏng dòn trong những người nghèo khổ, bệnh tật, di dân, ngoài lề, thất vọng, trầm uất, tù tội, trẻ thơ, thai nhi, thất nghiệp. Chông gai trên những con đường nghề nghiệp, cạnh tranh, buôn bán, gia đình tan vỡ, ly dị, tái kết hôn, …

Những ai từng nghe Lời Chúa, từng kín múc Thần Khí mới của Đức Kitô như chúng ta trong buổi phụng vụ này, thì phải biết làm bổn phận : “Ra khỏi mồ.” Ra khỏi mồ để thi hành những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi chúng ta. Tức công bố và xác quyết lời ban sự sống bằng chứng từ và hành động. Chúng ta phải thổi hơi vào nơi thiên hạ khao khát sức sống và hy vọng. Xin cho phép tôi ghi chép lại mấy liệt kê “ra khỏi” của tác giả Patricia Datchuck Sanchez đăng trong Tập san “Celebration” tháng 3 năm 2002 trang 121. Quý vị sẽ theo đó mà khai triển thành danh sách riêng của mình, ngõ hầu rao giảng cho sát với thực tế của hoàn cảnh địa phương, Chúa nói :

“Hãy ra khỏi chiếc mồ của tính tự mãn, kiêu ngạo,
tưởng mình như không cần ai, chẳng cần Thiên Chúa, chẳng cần anh em”.

‘Hãy ra khỏi chiếc mồ của ích kỷ, tham lam
chỉ chăm lo cho những nhu cầu của mình, bỏ quên những nhu cầu của kẻ khác”.

“Hãy ra khỏi chiếc mồ của những bộn rộn quá mức.
Cần tìm thời gian suy nghĩ, lắng nghe, yên lặng và cầu nguyện”.

“Hãy trỗi dậy khỏi nơi chôn vùi trong công việc tự áp đặt, những ràng buộc tưởng tượng, những lăng xăng kiểu Martha, trái lại nên noi gương Maria chỉ có một điều cần mà thôi đó là đời sống thiêng liêng, phần rỗi linh hồn mình”.

“Hãy ra khỏi chiếc mồ tự đào cho mình, ngày một sâu hơn do ngu dốt, kỳ thị, lãnh đạm, tẩy chay và hãy tỉnh thức nhạy cảm đối với những số phận nghèo khổ, đói rét, bị áp bức.

“Hãy ra khỏi chiếc mồ buồn phiền, trầm cảm, thất vọng và hãy mừng vui về ơn huệ nhận được từ tay Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân”.

“Hãy ra khỏi chiếc mồ yếm thế, vô vọng để sống lạc quan yêu đời trong hiểu biết bạn thuộc về tôi, tôi thuộc về bạn, chúng ta thuộc về Thiên Chúa.

“Hãy ra khỏi chiếc mồ kiên cố bằng những bức tường tự kỷ ám thị, những lo lắng vô ích, những xiếng xích, những bất an vô cớ và phó thác mình vào bàn tay toàn năng của Đấng Tối Cao, hằng yêu thương săn sóc nhân loại.

“Hãy thoát khỏi ngọn núi sợ hãi đang đè nặng trên vai, những buồn chán vì thất bại, bị phản bội, mất công ăn việc làm, thất nghiệp lâu ngày. Tháo gỡ mình ra khỏi những bận tâm không cần thiết và tìm sự can đảm mới, tự do mới nơi Ta”.

“Hãy ra khỏi chiếc mồ tội lỗi, khỏi chính bản thân đầy tính mê nết xấu và tiến vào đường nhân đức trong sạch, ngay thẳng, công chính.

“Hãy ra khỏi chiếc mồ cô đơn lạnh giá của tính ghen tương, đố kỵ. Ngỡ mình khỏi muôn vàn suy nghĩ bất chính, toan tính ma quỷ, hậu ý xấu xa, âm mưu xảo trá. Hãy đến chia sẻ tự do của đời sống vĩnh cửu với Thiên Chúa, Thần Khí và với Ta.”

“Hãy mở mắt ra xem thiên hạ đang cần thiếu những gì”.

Như vậy, Mùa chay quả là hồng phúc, thuận lợi để chúng ta trở về với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình. Do mưu mô của satan, chúng ta đã bị lôi cuốn vào những sai lầm trí tuệ và lòng muốn, bị chôn vùi trong những chiếc mồ bảy mối tội đầu. Chúa Giêsu phục sinh Lazarô cũng là phục sinh mỗi tín hữu, ban sự sống mới cho ông cũng là cho mỗi chúng ta. Sau khi chữa lành bệnh nhân, Chúa ra lệnh : Đừng phạm tội nữa, cũng là mệnh lệnh Ngài ra cho chúng ta trong Mùa chay này. Hãy trỗi dậy để hưởng tự do của ơn thánh và vinh quang của nếp sống mới trong Thiên Chúa. Như thế, sự chết phần xác không phải là môi nguy, bởi nó không thể chia rẽ chúng ta khỏi Thiên Chúa. Amen.


Fr. Jude Siciliano, op

Cho con được phục sinh trong đức tin
(Ga 11, 1-45)

Thưa quí vị,

Các bài đọc Chúa nhật hôm nay cũng nói đến những cái chết và sự sống lại. Nhưng cái chết loại nào và sống lại làm sao ? Có phải chỉ nói đến cái chết thể lý và sống lại thể lý ? Dĩ nhiên nếu lắng đọng tâm hồn suy tư thì không hẳn chỉ là như vậy. Vì cái chết có nhiều hình thức và sự sống cũng vậy.

Trước hết Ezekiel nói đến cái chết của dân tộc ông trong bài đọc thứ nhất. Rõ ràng dân tộc còn đang sống vậy mà ông coi như đã chết, chỉ còn nắm xương khô nằm rải rác khắp thung lũng:“ Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng, thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt đất và đã khô đét”(37,1-2). Lý do là vì dân tộc sống sa đọa, phản bội giao ước với Đức Chúa và bị Ngài phạt lưu đày sang Babylone. Như thế chẳng khác đã chết rối ư ? Họ hiện thời sống kiếp nô lệ ngoại bang, không còn tự chủ, không còn tương lai, không còn hy vọng phục quốc, tối thiểu do sức riêng mình. Nhưng trong bài đọc Ezekiel thị kiến thấy những xương khô đét đó được Đức Chúa cho sống lại. Một quang cảnh xứng hợp để mô tả sự phục sinh của dân tộc Do thái nhờ tay Thiên Chúa.

Chúng ta cũng có những trường hợp tương tự: cả một xã hội, tập đoàn, cá nhân, gia đình đã chết trong lừa đảo, âm mưu, sa đọa, trác táng phản bội Lời Chúa. Họ chết vì luân lý. Cũng có những hình thức chết tâm lý như vợ mất chồng, conmất cha, bệnh tật lâu năm, thương tích, chiến tranh..v..v.. Chúng ta có nhiều đường lối để nhìn vào mồ của mình, của người khác chứ không riêng gì mấy tấc đất cụ thể. Vị ngôn sứ nói thêm rằng ở bất cứ hình thức chết chóc nào khi Thiên Chúa dính líu vào thì chẳng có chi là tuyệt vọng: Đức Chúa là Thiên Chúa phán như sau : “Hỡi dân ta, nay chính ta mở huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đưa các ngươi ra khỏi huyệt và sẽ đưa các người về đất Israel”. Thiên Chúa đã làm tròn lời hứa đó và người Do thái đã được đưa về quê cha đất tổ. Đó là sự thật lịch sử vào thời vua Đariô. Dân Do thái được Thiên Chúa nâng dậy từ những nấm mồ của mình, một dân tộc được gọi là “không phải dân ta” nay trở thành đoàn người mới qua tinh thần của Đức Chúa. Sự chết và những biểu hiện khác nhau gây hiệu quả ngay cả trên những người coi mình “còn sống”. Nhưng vị tiên tri cam đoan Thiên chúa có quyền năng trên thần chết và mọi hình thức của nó. Chân lý này được bài Tin Mừng hôm nay xác nhận và chứng thực.

Thánh Gioan mở màn câu truyện với một cụm từ bất định:“Khi ấy có một người bị đau nặng”. Người ấy là ai ? Dĩ nhiên là Lazarô nhưng cũng có thể là bất kỳ ai: Tôi, bạn, các ông bà, anh chị em, mọi người trên mặt địa cầu này, chứ không riêng gì người em của chị em Maria và Martha, chúng ta nên áp dụng cho mình chứ đừng cho thiên hạ. Chúng ta đang đau nặng, đau cái đau mất sự sống đời đời do tội lỗi và kiêu căng. Đây là câu chuyện dài và quan trọng vì nó liên hệ đến kiếp sống mỗi người và nó cũng có những hệ quả trên chính Đức Kitô. Nó tăng tốc cái chết của Ngài. Ngài sẽ phục sinh Lazarô nhưng bằng cái giá mất mạng. Gioan kể:“ Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giêsu”(11,53) và quyết định giết luôn cả Lazarô nữa(12,10). Ghê gớm thật lòng ghen tương, thù ghét của con người. Đúng là mù lòa cả đám mặc dầu mắt vẫn mở to.

Than ôi, tội này khôn riêng gì của Pharisiêu và thế lực đền thờ ngày xưa. Nó là chung của nhân loại cho đến ngày tận thế. Tội đưa đến cái chết thực sự cả hồn lẫn xác mà được mấy ai lưu ý và tránh xa ? Chúng ta đã chết vì lòng ghen ghét thù hận mặc dầu vẫn trỗi dậy mỗi buổi sáng, đi làm, đi học, quét dọn nhà cửa, tiếp đón bạn bè, khách khứa. Chúng ta cần ai đó lôi chúng ta ra khỏi các nấm mồ của mình, phục sinh chúng ta, ban cho chúng ta tinh thần sự sống, tương tự như dân Do thái trong thờ tiên tri Ezekiel. Chúng ta cần Thiên Chúa nâng mình dậy khỏi những cái chết thảm khốc này. Toàn bộ chúng ta là những nắm xương khô đét trong thung lũng sự chết.

Sau mấy câu khai mào, Gioan đi vào câu truyện cụ thể: Tên của người ốm nặng đó là Lazarô người làng Betania. Hai tên này cũng có nghĩa tượng trưng. Lazarô nghĩa là “ Thiên Chúa cứu giúp”, Bêtania là “ nhà của sự khổ ải”. Phải chăn đây là thế giới và mỗi con người sống trong đó ? Xin đừng cậy mình sang giầu, đầy đủ, mạnh khỏe, kẻo mà nhầm! Chuyện này là của chúng ta và thế giới tục lụy này. Chúng ta cần Thiên Chúa cứu giúp trong ngôi nhà khổ ải của mình, chứ khôn thể nhởn nhơ, cười đùa hưởng lạc. Mùa chay cho chúng ta biết sẽ có cái chi tốt lành xẩy đến cho thế giới. Chẳng phải riêng cho Lazarô và ngôi làng của ông mà cho toàn thể nhân loại, cho mỗi linh hồn. Chúng ta phải chuẩn bị tốt để lãnh nhận ơn lành cứu độ.

Bởi lẽ câu truyện của Gioan đi từ xấu đến tệ, từ ốm nặng đến cái chết. Và rồi cái chết thì mọi sự chấm dứt. Tuyệt vọng người ta đem Lazarô đi chôn. Phong tục Do thái tin rằng linh hồn còn phản phất chung quanh xác chết rong ba ngày mới rồi đi hẳn. Ở đây là ngày thứ bốn. Chắc chắn linh hồn không có mặt. Ngưòi ta bọc cái xác vào khăn liệm, xức thuốc thơm, buộc dây băng và đặt trong mộ. Đám tang kết thúc. Chẳng có thể làm chi cho người chết nữa. Chị em Martha, Maria chỉ còn khóc thương.

Nếu như Đức Giêsu có mặt sớm, trước khi Lazarô chết; Ngài có thể chữa lành ông ta, như Người đã ban ơn huệ cho những kẻ khác và ông ta không bị tử thần lôi đi. Danh tiếng Đức Giêsu sẽ lan tỏa rộng hơn. Vì Lazarô là người bạn thân thiết của Chúa và ruột thịt của chị em Martha, Maria. Chúa Giêsu thường lui tới nhà của họ, tự nhiên như chỗ ở của mình và Ngài luôn được đón tiếp nồng hậu. Nhưng như vậy để chứng tỏ Chúa Giêsu còn hơn một thầy lang, người chỉ biết chữa bệnh, và kéo dài sự sống thêm chút ít nữa, rồi cũng chết. Chúng ta chẳng cần sống thêm mà cần sống vĩnh cửu. Đức Giêsu đã chứng tỏ Ngài là sự sống và có khả năng làm tròn đầy ước vọng của loài người. Đức Giêsu không chỉ kéo dài cuộc sống cho chúng ta. Ngài chính là Đấng tiêu diệt tử thần, chiến thắng cái chết. Không những cái chết phần xác, mà hết mọi hình thức chết chóc, kể cả cái chết đời đời. Thiên hạ có tin điều này không ?

Cứ như hiện trạng thế giới và của chúng ta nữa, thì không chắc như vậy. Vì chúng ta đâu có ưa thích sống vĩnh cửu. Chúng ta ưa đời này nhiều hơn, đi kiếm tìm danh lợi, tiện nghi, nhung lụa, sung sướng xác thịt. Còn thế giới thì hận thù, chém giết, chiến tranh. Chẳng có dấu hiệu nào là thiêng liêng, hòa bình ơn thánh. Ngay trong các tôn giáo xưng mình là yêu mến Thiên Chúa thờ phượng Ngài mà cũng chia rẽ, chống đối nhau, ôm bom giết hại nhau. Sự chết dưới nhiều hình thức vẫn có quyền năng trên nhân loại, trong mỗi tâm hồn. Chúng ta chẳng có thẩm quyền nào, vẫn quằn quại trong ngôi nhà “khổ ải” và lãng quên tầm nhìn về ơn cứu độ.

Lúc Chúa Giêsu tới nhà ba chị em, thì chắc chắn Lazarô đã chết, chôn đưọc bốn ngày, hồn không còn ở gần thân xác nữa theo niềm tin bình dân của người Do thái. Dầu vậy, Ngài vẫn truyền lệnh lăn tảng đá đóng cửa mộ ra. Martha sợ hãi căn ngăn:“ ThưaThày, nặng mùi rồi, vì đã là ngày thứ bốn”. Cô là người đầu tiên nói với Chúa về cái chết và cũng là người thứ nhất được Chúa mạc khải về quyền năng ban sự sống cho thế gian:“ Chính Thày là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thày, sẽ không bao giờ phải chết”. Chúng ta có quyền nghi ngờ rằng cứ như diễn biến của câu truyện thì thoạt kỳ thủy Martha không biết được chân lý này, mặc dầu cô biết: “Thày xin cùng Thiên Chúa bất cứ điều gì, Người cũng ban cho Thày” nhưng không đến mức độ biết được Chúa Giêsu làm chi em cô. Cô biết Đức Giêsu là con người đặc biệt. Nhưng đặc biệt đến mức độ nào thì cô không biết. Cho nên Ngài phải rõ ràng: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.

Điều này cũng áp dụng cho thế giới. Người ta biết chưa nhiều lắm cung kính Ngài nhiều lắm. Coi Ngài như tôn sư vĩ đại về luân lý, học thuyết. Nhưng sự thực Ngài còn hơn một lãnh tụ tinh thần nhiều lần. Ngài là Cứu Chúa ban sự sống lại và là sự sống cho nhân loại. Mùa chay này Giáo hội kêu mời chúng ta xác nhận đức tin ấy, đúng như chúng ta tuyên xưng trong các nghi lễ tuần thánh và phục sinh, bằng lòng thống hối chân thật chứ không chỉ ngoài môi miệng.

Bởi vì cuộc đối thoại giữa hai chị em Martha và Maria rất quan trọng. Chúa xưng mình là sự sống lại, chứ không phải sẽ là sự sống lại. Hai cô có đức tin vào sự sống lại, nhưng là tương lai, chứ không phải hiện tại:“ Con biết này tận thế, em con sẽ sống lại”. Chúa Giêsu thẳng thừng với hai chị em:“ Ta là sự sống lại” nghĩa là đức tin của hai chị em không nên úp mở gì nữa mà phải tin Ngài là sự sống lại và là sự sống cho thế gian. Tuy vậy đức tin của các tín hữu hôm nay vẫn là thứ đức tin như hai chị em, lưỡng lự, mập mờ. Sự sống lại và là sự sống của chúng ta phải là bây giờ, giây phút hiện tại này vào Chúa Giêsu, thể hiện ra trong lối sống của chúng ta. Nếu không thì chỉ là môi miệng suông nếu không muốn nói là lừa đảo.

Cứ suy gẫm xem lời tuyên xưng của hai chị em có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta: “Vâng, thưa Thày. Con vẫn tin Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Không phải đức tin vào tương lai mà thôi nhưng chủ yếu là hiện tại. Và chính Đức Kitô cũng xác nhận như thế: “Ta là sự sống lại và là sự sống”. Và đã chứng minh bằng cách cho Lazarô thối rữa được chỗi dậy tức thời. Nếu đức tin của chúng ta đúng như vậy, thì phải từ bỏ tính hư, nết xấu. Ngõ hầu chia sẻ đức tin cho thế gian để tỏ rõ sự sống lại ở hiện tại. Chúng ta phải sống như những người phục sinh từ nấm mồ quá khứ của mình. Amen.


G. Nguyễn Cao Luật op

Chuyến Du Hành Vào Cõi Chết
Ga 11:1-45

Từ cái chết đến cái chết

Cách cư xử của Ðức Giêsu trong câu chuyện này thật lạ lùng. Nghe tin ông La-da-rô -một người vẫn được Ðức Giêsu thương mến- đang đau, Người vẫn không tỏ vẻ gì vội vàng, trái lại, Người còn nói thêm : "bệnh này không đến nỗi chết đâu". Và Người vẫn thản nhiên như không có gì xảy ra, Người lưu lại thêm hai ngày nữa. Lúc ấy ông La-da-rô đã chết, được an táng trong mổ, và Ðức Giêsu chỉ có mặt tại Bê-ta-ni-a bốn ngày sau khi La-da-rô được an táng !

Ðến Bê-ta-ni-a, Ðức Giêsu cũng không chạy đến nhà hai chị em cô Mácta và Maria -những người vẫn được Ðức Giêsu yêu quý- để an ủi. Người đứng ở ngoài làng và chờ đợi.

Thế nhưng, sau đó Ðức Giêsu đã xao xuyến (11,33) và đã khóc (11,35).

Cách xử sự lạ lùng này được diễn giải nhờ câu nói của Ðức Giêsu với các môn đệ : "là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa" (11,4). Không phải là Ðức Giêsu không biết La-da-rô đã chết, nhưng đây chính là cơ hội để tôn vinh Người là Con Thiên Chúa. Người vẫn một lòng yêu mến La-da-rô, nhưng quan trọng hơn, Người muốn qua cái chết của ông, để cho các môn đệ cũng như người khác hiểu rằng Người có quyền trên cả cái chết. Người chính là sự sống lại và là sự sống.

Bởi đó, Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ trước khi cùng các ông quay trở lại miền Giu-đê : "Thầy mừng cho anh em vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin." (11,15). Người không chỉ thản nhiên, nhưng còn vui mừng.

Cái chết của La-da-rô hẳn là một dự báo cho cái chết của chính Ðức Giêsu. Và với tình bạn sẵn có giữa Người và ông, Ðức Giêsu đã chứng tỏ một sự táo bạo phi thường trong tình bạn đó, bởi vì rõ ràng Người để bạn mình chết đi và buộc bạn phải chịu sự hy sinh triệt để nhất. Người đảo lộn mọi thông lệ của tình bạn, và đưa tình bạn này vào bình diện siêu nhiên của cuộc cứu thế, bởi vì Người làm cho La-da-rô đi qua một cái chết và một cuộc phục sinh, trở thành lời loan báo sát cận về chính cái chết và cuộc phục sinh của Người. Ðức Giêsu muốn rằng số phận người bạn của Người là một sự báo trước số phận của Người. Người mong muốn La-da-rô giống Người một cách chói lọi qua việc phác hoạ ra tấn kịch cứu độ, và đó là đặc ân kinh khủng nhất nhưng cũng cao quý nhất Người dành cho ông, đó là quà tặng vĩ đại nhất của tình thương Người (theo I.Galot, S.J, Thánh Tâm ÐGS, trang 160-161).

Ðúng thế, tình bạn giữa Ðức Giêsu với ông La-da-rô là một tình liên đới sâu xa, gắn liền với mầu nhiệm cứu rỗi. Chính khi Ðức Giêsu đưa ông La-da-rô về với sự sống, thì ông La-da-rô lại dẫn Ðức Giêsu đến cái chết.

Chuyến du hành vào cõi chết

Trước khi xảy ra câu chuyện này, Ðức Giêsu đã rút lui sang bên kia sông Gio-đan, vì người Do-thái tìm cách bắt Người. Thế nhưng, vì tình bằng hữu, và nhất là, vì "giờ" đã đến, Ðức Giêsu quyết định quay trở lại miền Giu-đê, tại miền đất người ta đang chống lại Người và tìm cách giết Người. Những sự kiện xảy ra mấy ngày trước đây, các Tông Ðổ đều chứng kiến, nên lúc này, các ông lo sợ về sự an toàn tính mạng của chính các ông cũng như của Ðức Giêsu. Các ông đã tìm cách can ngăn Người bằng cách gợi lại những biến cố mới xảy ra, nhưng Ðức Giêsu vẫn cương quyết, và các ông đành theo Người, biết trước rằng nguy hiểm đang chờ đón.

Quả thế, việc Ðức Giêsu trở lại miền Giu-đê là một chuyến du hành vào cõi chết, một cuộc mạo hiểm. Cơn bệnh và cái chết của người bạn, nỗi đau của những người thân, sự cứng lòng của những người láng giềng, đó là những tiếng cười nhạo của Ðịch Thủ cuối cùng mà Người phải chiến thắng.

Ngoài ra, trong chuyến du hành này, Ðức Giêsu biết rõ điều gì đang chờ đợi Người. Thế nhưng, Người đã rời bỏ chốn ẩn mình, Người đã dám tiến vào sào huyệt của Thù Ðịch, Người cũng hiểu rằng tính mạng của mình sẽ bị lâm nguy khi đến trợ giúp La-da-rô và chính vì vậy, Người rèn luyện những phương tiện đưa tới chiến thắng.

Người coi nhẹ nỗi buổn của mình. Người sẵn sàng dấn thân sâu bao nhiêu có thể vì các bạn hữu của mình, và nhờ đó, Người trao ban sự sống của Người cho họ. Bóng tối cũng như ám khí tử thần có thể vây bọc Người trong chốc lát, nhưng Người hiểu rằng Người sẽ không bị giam cầm mãi mãi trong mộ, bởi vì, câu nói đầy uy quyền với La-da-rô, cũng là cho chính Người : "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mổ !"

Như thế, qua chuyến du hành này, Ðức Giêsu bày tỏ điều thâm sâu nhất của chính Người, đổng thời cho thấy Ðịch Thủ nguy hiểm nhất của con người là sự chết, và Ðức Giêsu đã chiến thắng. Chiến thắng bằng cái chết của Người và sự phục sinh từ cõi chết.

Và, chuyến du hành này cũng chứng tỏ Ðức Giêsu hằng sống hơn bao giờ hết. Người là Ðấng Hằng Sống, là Ðấng ban sự sống cho những kẻ được Người yêu mến. Người ngỏ lời với những kẻ sợ không dám liều mạng sống hay những kẻ muốn giữ mạng sống : Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ðiều này có nghĩa là Ðức Giêsu không chỉ là người xô dạt tảng đá lấp cửa mổ của người khác, kể cả của Người. Phục sinh có nghĩa là chính con người của Ðức Giêsu, là đem lại sự sống : "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người" (1 Ga 5,11).

Cái chết chỉ là một cuộc vượt qua

Ngày hôm nay, chúng ta hiểu rằng Ðức Giêsu đã chịu chết và đã phục sinh, và điều này là hình ảnh tượng trưng cho cuộc vượt qua từ sự chết sang sự sống, cuộc vượt qua mà mọi tín hữu sẽ phải trải qua.

Theo Tin Mừng, hai chị em cô Mácta và Maria cũng như các bạn hữu của họ mong muốn Ðức Giêsu ngăn cản cái chết của La-da-rô. Ðang khi đó, Ðức Giêsu, mặc dù rất buổn, lại mong muốn có cái chết này để rổi La-da-rô được sống lại và trở thành một nhân chứng về lòng tin.

Sự căng thẳng vẫn xảy đến với chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta xin Chúa đừng để cho con cái, cha mẹ, bạn bè và chính chúng ta phải chết, đang khi đó chúng ta lại biết con đường dẫn đến Sự sống là phải đi qua cái chết.

Có thể là cái chết về mặt thể lý, nhưng nhất là, một cái chết nào đó cho chính mình để được sinh lại trong sự sống do tình yêu Thiên Chúa trao tặng.

Thiên Chúa của chúng ta là Ðấng mở tung cửa các ngôi mộ.

Ðức Kitô là Ðấng đứng giữa đường dẫn đến nghĩa trang, Người bảo đảm cho chúng ta về cuộc vượt qua từ cái chết sang sự sống.

Chúa chúng ta là Ðấng đã nói với La-da-rô : hãy ra khỏi mồ. Người cũng nói như thế với chúng ta là những kẻ đang bị giam giữ. Người là Ðấng giải thoát, tháo gỡ khỏi chúng ta y phục của sự chết, những dây băng của sợ hãi.

Như vậy, trước khi đạt đến sự giải thoát toàn diện, người Kitô hữu phải đi qua cái chết như một điều gì không thể tránh được, đổng thời vẫn phải tin vào một sự sinh ra, tin vào sự sống. Sự sống do Thiên Chúa trao tặng buộc tất cả những sinh ra, tin vào sự sống. Sự sống do Thiên Chúa trao tặng buộc tất cả những người nhận lãnh phải bày tỏ thái độ, hoặc ưng thuận hoặc chối bỏ. Ðó cũng là bày tỏ thái độ với Ðức Giêsu : đi theo hay từ khước.

Ðàng khác, vẻ thản nhiên của Ðức Giêsu không làm chúng ta nghi ngại, vì chúng ta hiểu rằng, Người yêu thương chúng ta hơn là chúng ta mong đợi. Cũng như La-da-rô, chúng ta là bạn hữu của Người, là những người được Người yêu mến. Người đem lại cho chúng ta sự sống, đổng thời Người cũng muốn chúng ta nhận ra quyền năng và vinh quang của Người. Không phải chỉ cho một mình La-da-rô mà Người đã dấn mình vào cõi chết, nhưng cả cho chúng ta nữa.

Còn ít ngày nữa, chúng ta sẽ long trọng mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Ðấng Hằng Sống. Hãy tin tưởng. Cái chết chỉ là một cuộc vượt qua.

* * *

Nước mắt của Người ví tựa cơn mưa

và ông La-da-rô tựa hạt giống

và ngôi mộ là mảnh đất.

Như hạt giống, La-da-rô đã vươn lên,

ông ra khỏi mổ và tôn vinh Chúa,

Ðấng đã cho ông được phục sinh.

Ðức Giêsu đem lại sự sống cho ông La-da-rô

còn Người lại chịu chết.

...

(theo thánh Ephrem)


Giacôbê Phạm Văn Phượng op

Sống và chết
(Ga 11,3-7.17.20-27.33b-45)

Bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu làm phép lạ cho La-da-rô đã chết và an nghỉ trong mộ bốn ngày được sống lại. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu phép lạ này và ghi nhận bài học hữu ích cho chúng ta.

La-da-rô là em út của Mácta và Maria, sống ở làng Bê-ta-ni-a. Gia đình này là chỗ rất thân quen với Chúa Giêsu, nên mỗi khi có dịp đi qua đây, Chúa đều ghé lại để thăm hỏi và nghỉ ngơi. Vì rất thân quen với Chúa như thế, nên khi La-da-rô lâm bệnh nặng thập tử nhất sinh, thì gia đình liền sai người báo tin cho Chúa biết. Nhưng vì Chúa đang giảng dạy ở xa, phương tiện di chuyển khó khăn, nên người đi báo phải đi mất một ngày mới gặp được Chúa. Được tin, Chúa còn ở lại đó hai ngày rồi mới trở về Bê-ta-ni-a, mất thêm một ngày nữa, vị chi là bốn ngày.

Khi Chúa tới nơi thì La-da-rô đã chết và chôn trong mộ được bốn ngày. Chúa hỏi thăm và nói chuyện với Mác-ta. Thấy Mácta chưa tin vào quyền năng làm phép lạ của Chúa, nên Chúa đòi hỏi chị phải có thái độ tin tưởng dứt khoát. Chúa nói : “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, chị có tin như thế không ?”. Mácta tin và thưa với Chúa : “Thưa thầy, có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.

Sau đó, Mácta vào nhà gọi em là Maria ra tiếp chuyện Chúa. Gặp Chúa, Maria sấp mình dưới chân Chúa, nhắc lại lời nói của chị và khóc nức nở. Thấy vậy, Chúa Giêsu xúc động, rồi mọi người đi ra nơi chôn La-da-rô. Khi tới mộ, Chúa bảo mở tảng đá che cửa mộ ra, chúng ta nên biết : Theo tập tục Do Thái, người ta không đào huyệt ở dưới đất như người Việt Nam chúng ta, nhưng đào sâu vào vách núi như một cái hang. Sau khi đã đặt thi hài người chết vào trong đó, người ta dùng một tảng đá lớn che cửa mộ lại. Bây giờ là lúc Chúa tỏ uy quyền. Trong khi mọi người tưởng rằng Chúa bảo mở cửa mộ là để Chúa nhìn mặt La-da-rô lần cuối cùng, chứ đâu ngờ Chúa làm phép lạ. Ngài tạ ơn Chúa Cha và ra lệnh : “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ”. Lập tức kẻ chết lù lù tiến ra, tay chân còn quấn vải và mặt còn phủ khăn.

Đó là diễn tiến hoàn cảnh của phép lạ. Chúa Giêsu làm phép lạ này với nhiều ý nghĩa và mục đích : Thứ nhất, để minh chứng Thiên Chúa là Đấng hằng sống và là nguồn sự sống, Ngài đã tạo dựng nên sự sống, Ngài có quyền trên sự sống và có quyền phục hồi sự sống. Thứ hai, để củng cố niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta vào sự sống lại. Thứ ba, để báo trước cái chết và sự sống lại của chính Ngài. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều quan trọng cần tìm hiểu. Hôm nay chúng ta tìm hiểu một điều thôi hay nói đúng hơn hai điều có liên quan với nhau, đó là sống và chết.

Sự sống là một cái gì rất hiển nhiên nhưng lại khó định nghĩa. Với cặp mắt xác thịt, chúng ta chỉ nhìn cuộc đời trong hai cảnh : sống và chết. Với đôi tai phàm phu, chúng ta chỉ nghe cuộc sống trong hai tiếng : cười và khóc. Cho nên, có người đã nói : sống là sinh ra và kêu la, chết là kêu la và đi ra. Nếu cuộc sống chỉ vỏn vẹn trong tấn kịch sống và chết, trong bản nhạc cười và khóc, thử hỏi đời có đáng sống không? Nhiều người vẫn nói : đời sống đáng lắm. Phải, cuộc đời đáng sống lắm, nhưng đó có phải là cuộc đời tạm bợ này hay một cuộc đời nào khác ?

Thực vậy, ai cũng biết thế nào là sinh ra, lớn lên, hành động, phản ứng rồi tàn lụi đi như đời sống của một cọng cỏ, một con thú, một con người. đó là đời sống tự nhiên : sinh ra, kêu la, sống. Kêu la, đi ra, chết. Yêu thương, ghen tương rồi vĩnh biệt. Hy vọng, thất vọng rồi đời đời không còn thấy nhau nữa. Một chiếc bóng, một ngọn gió thoáng qua, một làn khói tan biến, một lá cỏ rơi xuống héo khô, một bông hoa sớm nở chiều tàn… đó là những hình ảnh Sách Thánh nói về cuộc sống thế trần, cuộc sống mà cuối cùng là ngôi mộ, dù sang trọng đến đâu, cũng chỉ là nhà ngục giam nó chung thân.

Sự sống là cái gì rất hiển nhiên, thì chết cũng là một cái gì rất hiển nhiên đến sau sự sống : đã sinh ra, thế nào cũng phải chết : hữu sinh hữu tử, đó là một định luật tự nhiên, một định luật nghiêm khắc, không ai tránh khỏi. Sống và chết là hai mặt phải trái của một cuộc đời. Chính vì “sinh, lão, bệnh, tử” là quy luật tự nhiên của đời sống, nên người ta đã đi tìm đủ mọi cách, mọi phương thuốc để cho mình sống dồi dào hơn, nghĩa sống khỏe hơn, sống mạnh hơn, sống đẹp hơn. Chẳng hạn người ta đi tìm những củ sâm ngàn năm, những cọng cỏ linh chi để chế biến thành các viên thuốc cải lão hoàn đồng. Có người còn tin rằng muốn sống lâu và trẻ đẹp mãi, thì cứ việc ăn tim, ăn óc, hút máu người sống, nhất là của thanh niên hay thiếu nữ, để năm tháng đời họ được cộng vào năm tháng đời mình, giống như yêu quái trong các truyện Tây Du Ký hay Liêu trai chí dị…

Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc “trường sinh”. Có một câu chuyện hay về loại thuốc này : thời Chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc “bất tử” hay thuốc “trường sinh” cũng vậy, người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung. Viên quan canh của quát hỏi : “Vị thuốc này có ăn được không ?”. Người ấy đáp : “Dạ, ăn được”. Tức thì viên qua giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng : “Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói rằng : ăn được, nên hạ thần mới dám ăn. Thế là hạ thần vô tội, mà lỗi ở người dâng thuốc. Hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa. Thế mà hạ thần mới ăn, lại sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được ? Hoàng thượng giết hạ thần thật là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin”. Nhà vua nghe nói có lý, nên tha tội chết cho viên quan ấy.

Hiện nay, các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng ? Chúng ta cứ hy vọng, đó là vấn đề còn nằm trong giả thuyết. Nhưng theo Kinh Thánh, thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ : “Ngươi sẽ trở về bụi đất”. Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật ấy. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết.

Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Đức Kitô đã loan báo cho con người một Tin Mừng : sự chết trở thành khởi điểm của một cuộc sống mới vô tận. Chết đưa chúng ta vào một thế giới, mà trong đó không còn tang tóc, khóc lóc, chết chóc. Chết là bước vào cuộc sống bên Thiên Chúa, trong vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.

Như vậy, phép lạ làm cho La-da-rô sống lại vừa là một lời mời gọi con người cùng tiến tới với Chúa Kitô vào mầu nhiệm Vượt Qua như môn đệ Tô-ma đã nói : “Nào, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”, vừa là một sự bảo đảm cho cuộc sống dồi dào sau đó : “Vì nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người”. Đó là niềm tin của chúng ta. Chúa Kitô đã chết, chúng ta cũng sẽ chết. Chúa Kitô đã sống lại, chúng ta cũng sẽ sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay bị phạt là tùy chúng ta đã sống như thế nào trong cuộc sống tạm bợ ở trần gian. Xin Chúa cho chúng ta luôn sống tốt đẹp, để chết trong ơn nghĩa Chúa, và sẽ sống lại để hưởng hạnh phúc muôn đời cùng với Chúa Kitô Phục Sinh.


Phaolô Phạm Chung Kiên op

Ta là sự sống lại và là sự sống
Ga 11:1-45

Trong bài tin mừng hôm nay Đức Giêsu cho thấy : chính Người là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Người, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người, sẽ không bao giờ phải chết. Sau khi tuyên bố như thế Đức Giêsu hỏi Mác-ta: con có tin như thế không ?”. Đó cũng chính là câu hỏi mà Đức Giêsu đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể, Trong tâm tình Mùa chay, Giáo hội mời gọi chúng con sám hối và canh tân đời sống bằng việc chay tịnh và bằng những việc lành. Nhìn lại đời sống của mình, chúng con thấy rằng hầu hết những quan tâm của chúng con đều là lo cho cuộc sống thể xác : ăn uống, hưởng thụ, tiền bạc, danh vọng... Và rất nhiều lỗi lầm của chúng con cũng vì quá lo cho cuộc sống thể xác.

Hàng ngày, chúng con vẫn thường tuyên xưng “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Nhưng trong thực tế, chúng con chưa sống đúng theo niềm tin ấy. Vì thế, chúng con thường bám víu vào những thứ nuôi cuộc sống thân xác.

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể, Ngày chúng con lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng con được chia sẻ sự sống thần linh của Chúa. Đời sống ấy được lớn lên nhờ cầu nguyện, nhờ thánh thể, nhờ kết hợp với Chúa hàng ngày. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là chúng con có chăm lo bồi dưỡng đời sống thần linh Chúa đã ban cho chúng con không ? Khi gặp những khó khăn thử thách, chúng con có đặt niềm tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa hay không ?

Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng con cũng giống cô Mác-ta : khi gặp gian nan, thử thách, đau khổ, chúng con bị cám dỗ phiền trách Chúa, thậm chí quay lưng lại với Chúa. Chứng kiến cái chết của em mình là Lazarô, cô Mác-ta đã phiền trách Chúa : “Nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết”.

Chúa Giêsu không ngăn chặn lazarô khỏi cái chết về thể lý. Thế nhưng cái chết thể lý đó không phải là con đường dẫn đến ngõ cụt mà là con đường đưa đến ơn cứu độ. Và rồi, Chúa đã cho Lazarô sống lại để củng cố niềm tin cho chúng con. Cái chết và sự sống lại của Lazarô đã cho chúng con thấy sự mong manh của cuộc sống đời này và đồng thời cho chúng con bài học về những thử thách trong cuộc sống. Mỗi ngày dù ít hay nhiều chúng con đều đã nếm mùi đau khổ trong những phiền muộn, thất bại, chán nản, và những khủng hoảng trong cuộc sống. Thế nhưng, đến với Chúa và đặt niềm tin vào Chúa, chúng con sẽ vượt qua được những thử thách ấy. Chính vì thế, tác giả thánh vịnh 116 đã hát lên : “quý thay trước mắt Yavê, cái chết của những ai thành tín với Ngài” (Tv 116,15).

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể,

Trong những ngày này chúng con đang chuẩn bị tâm hồn để chia sẻ niềm vui phục sinh của Đức Giêsu. Cuộc sống thiêng liêng của chúng con có thể đã chết hay chưa sống dồi dào. Vì thế, chúng con cần nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng mà Chúa đã ban cho chúng con. Chúng con cần tin tưởng rằng sự chết là một phần của sự sống mới. Phần tội lỗi trong con người chúng con phải chết đi để cho đời sống thiêng liêng được sống dồi dào. Mỗi ngày chúng con cần chết đi cho tính ích kỷ, tự phụ và những tật xấu để cuộc đời chúng con được đổi mới.

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi chúng con qua cầu nguyện. Mỗi lần chúng con đến gặp Chúa, xin biến đổi đôi mắt chúng con. Mỗi lần chúng con rước Chúa, xin biến đổi miệng lưỡi chúng con để chúng con diễn tả tình yêu thương của Chúa. Mỗi lần chúng con nghe Lời Chúa, xin biến đổi tai chúng con để chúng con biết lắng nghe người khác.

Xin cho chúng con luôn biết chạy đến với Chúa cả những lúc thành công cũng như những lúc thất bại, chán nản, khủng hoảng trong cuộc sống bằng một niềm tin vững mạnh và tâm tình phó thác tuyệt đối vào Chúa. Amen


Đỗ Lực op

Ðường Vào Cõi Sống
(Ga 11:1-45)

Trước “việc gia tăng bạo loạn và sự nghèo đói đang ảnh hưởng tới rất đông quần chúng và khiến cho nhiều người di cư sang các nước khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống cá nhân và gia đình,” ÐGH Bênêđictô đã thúc đẩy các giám mục Guatemala “tiếp tục sứ mạng Phúc âm hóa của Giáo Hội với nghị lực canh tân trong bối cảnh các phong trào văn hóa hiện đại và việc toàn cầu hóa. Việc Phúc âm hóa các nền văn hóa là công việc ưu tiên bảo đảm lời Thiên Chúa đạt đến từng người và một khi đã thâm nhập vào tâm trí, Lời Chúa trở nên ánh sáng soi dẫn và thành nước thanh tẩy các nền văn hóa đó với sứ điệp Tin Mừng đem ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.”[1]

Lời Chúa sẽ đem lại sức sống và ánh sáng cho mọi nền văn hóa và các dân tộc. Lời Chúa quả thực là sức vạn năng của Thiên Chúa. Có thể kiểm chứng điều đó trong biến cố Chúa làm cho Ladarô sống lại, đem niềm vui chan hòa cho nhà Bêtania, củng cố niềm tin của Martha và Maria cũng như đem lại niềm tin cho nhiều người.

ÐỨC TIN LÀ TẤT CẢ

Trong giờ phút nguy kịch, hai chị em Martha và Maria đã lo lắng biết chừng nào trước cơn hấp hối của người em là Ladarô ! Chúa Giêsu biết rõ ông đang ở bờ vực tử thần. Chúa cũng biết hai chị em đang nóng lòng mong chờ Chúa đến an ủi họ. Hơn ai hết, Chúa biết rõ mình có thể cứu Ladarô, nhưng Chúa vẫn thấy không cần phải vội vã theo lòng mong đợi của người đời. Thế là trong cơn đau khổ của gia đình thân thiết nhất, Chúa đã không có mặt.

Cùng một sự kiện, nhưng đã có hai cái nhìn khác nhau. Cái chết của Ladarô là một đại họa cho gia đình Bêtania. Nhưng Chúa Giêsu lại thấy đó là một tin mừng : "Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin.” (Ga 11:14-15) Tại sao Chúa lại có cái nhìn lạ lùng vậy ? Cũng như người mù bẩm sinh được sáng mắt không phải để nhìn cảnh vật bên ngoài, Ladarô sống lại không phải để kéo dài cuộc sống mấy chục năm nữa. Nhưng họ tìm lại được ánh sáng và sự sống để nhìn sâu vào tâm hồn mà khám phá cả một nguồn hồng ân vô cùng lớn lao, đó là đức tin. Ðức tin giúp họ nhìn vượt trên mọi biên giới trần gian.

Muốn Ladarô thoát ra khỏi vùng tử khí, cần có một đức tin như Martha và Maria. Lúc đầu Martha than phiền vì Chúa chậm trễ, mà Ladarô phải chết. Nhưng khi Chúa bắt đầu nói, họ đã lấy lại được niềm tin. Lời Chúa đã chạm tới tận tâm hồn họ. Hai chị em không còn tuyệt vọng và sợ hãi nữa. Cả hai đều tự do và cởi mở hơn để có thể đón nhận sự thật là Chúa Kitô, nguồn sự sống. Họ di chuyển từ nơi ít sự sống đến nơi chan hòa sự sống. Nói khác, họ đã hoàn toàn biến cải để bước vào mầu nhiệm sự sống ngang qua cái chết. Thánh Phaolô diễn tả tiến trình biến cải này khi mời gọi chúng ta nhận biết Chúa Giêsu đến trần gian để ban sự sống. Thật vậy, “nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính.” (Rm 8:10-11)

Cả hai chị em Martha và Maria đều thức tỉnh trước công cuộc quá sức lớn lao Chúa đã làm cho gia đình. Thánh Linh đã hoạt động. Chúa Giêsu xuống thế để trần gian ý thức Người là Ðấng đầy sự sống và quyền năng. Người hoàn toàn muốn ban sự sống cho mọi người. Người cũng muốn họ hiểu rằng Thánh Linh đang ngự trong mọi người và đang đánh thức họ, làm cho họ mạnh mẽ và có khả năng dấn thân hơn vào những công cuộc tranh đấu giành lại sự sống và quyền làm người.

Khi làm cho Ladarô sống lại, Chúa muốn cho mọi người thấy giá trị cao cả của sự sống cũng như hạnh phúc con người. Nếu Chúa đến kịp lúc Ladarô hấp hối để tránh cho Ladarô khỏi chôn táng trong mồ bốn ngày, gia đình Bêtania không thể cảm được tất cả sức mạnh siêu việt của Lời Chúa. Lời Chúa không phải chỉ là những lời giảng dạy, nhưng đích thực là quyền năng Thiên Chúa ban sự sống. Chỉ cần một Lời Chúa kêu gọi Ladarô, sự sống đã trở lại và trả lại mọi sự cho mọi người.

Martha và Maria đã mời Chúa Giêsu đi vào cõi đau khổ của họ để thấy sự mất mát lớn lao do cái chết của Ladarô. Chúa Giêsu muốn tỏ cho Martha và Maria, và cả chúng ta nữa, thấy vinh quang Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Kết quả, khi “được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.” (Ga 11:45)

Chỉ cần tin, người ta sẽ thấy tất cả sức mạnh biến đổi của Lời Chúa. Thực vậy, ông Abraham đã “trở nên công chính nhờ lòng tin.” (Rm 4:13) Ông đã trở nên tổ phụ và được Chúa kết ước. Từ đó, cuộc sống ông hoàn toàn thay đổi và đã đạt được tất cả những điều mơ ước ! Trước khi khiến Ladarô bước ra khỏi mồ, Chúa Giêsu đã kiểm tra lại đức tin của Martha :"Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?" (Ga 11:25-26) Cô đã mau mắn đáp : "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian." (Ga 11:27) Nếu không có đức tin, hai chị em và dân làng đã không thể có được niềm vui nhìn Ladarô sống lại.

Ðúng như Chúa nói, đức tin đã chuyển núi dời non, đã đem Ladarô từ cõi chết về cõi sống. Ðức tin còn qui tụ muôn người quanh Ðức Kitô. Ðức tin còn làm cho con người nên công chính. Nhờ đó họ có thể phá vỡ các hình thức bạo lực trong các cơ chế bất công và đem lại sự hiệp nhất nhân loại. Nhờ đức tin, Kitô hữu có sứ mệnh quy tụ muôn dân quanh Chúa Kitô. Sứ mệnh đó không thể được hoàn thành nếu họ không nhờ Lời Chúa.

NHƯ MỘT BIỂU TƯỢNG

Lời Chúa mãnh liệt biết chừng nào ! Khi nghe Chúa phán "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! " Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn.” (Ga 11:43-44) Từ một cái xác không hồn, Ladarô bước vào cõi sống ! Nếu sau khi thoát khỏi cảnh tối tăm và giam hãm trong mồ, Ladarô không thấy được giá trị lớn lao của tự do cũng như hai chị em Martha và Maria không canh tân lòng tin, thì việc phục sinh ông trở nên vô nghĩa và vô giá trị. Bởi đó, tự do con người phải dẫn tới tự do con cái Chúa mới đạt đến ý nghĩa và giá trị sung mãn. Lời Chúa là sức mạnh giải thoát.

Hình ảnh Ladarô mang nhiều ý nghĩa biểu tượng đối với chúng ta, những người chưa chết, nhưng hình như cũng đang bị chôn vùi trong những lối sống và cơ chế cứng ngắc. Chúng ta vô phương tự giải thoát. Nếu “cá nhân muốn sống tự do, phải có những điều kiện kinh tế, xã hội, pháp lý, chính trị và văn hóa. Nhưng quá nhiều khi người ta không đếm xỉa hay phá đổ các hoàn cảnh đó. Khi lìa bỏ luật sống tinh thần, con người làm tổn thương tự do của mình, tự giam hãm, cắt đứt mối liên hệ thân tình với người lân cận và chống đối chân lý của Chúa.”[2] Ðúng là những tầng địa ngục giam hãm con người. Làm gì còn tự do, công lý và hạnh phúc những nơi tăm tối đó !

Làm sao ra khỏi cảnh tù ngục đó, nếu trước tiên không có ánh sáng ? Hỏa ngục nào cũng tràn ngập bất công và tước đoạt con người đến tận xương tủy. Bởi vậy, “đẩy xa những bất công là thăng tiến tự do và phẩm giá con người. Tuy nhiên, việc phải làm đầu tiên là kêu gọi cá nhân xử dụng những khả năng thiêng liêng và tinh thần cũng như thường xuyên phải hoán cải nội tâm, nếu muốn thực hiện những cải cách kinh tế và xã hội nhằm phục vụ con người.”[3] Nếu không hoán cải nội tâm, tất cả mọi công trình đều mất sức sống. Nhưng mọi cuộc hoán cải đều bắt nguồn từ đức tin. 

Niềm tin trở thành sức mạnh phục hồi những gì đã chết dưới sức nặng tội lỗi, nhất là tội bất công. “Trước những hình thức bóc lột và bất công xã hội hiện tại, nhiều người đã cảm nhận cách sâu xa nhu cầu triệt để canh tân cá nhân và xã hội để bảo đảm cho một cuộc sống công bình, liên đới, lương thiện và cởi mở. Chắc chắn có cả một con đường dài và đầy chông gai trước mặt. Về ‘vấn đề xã hội,’ chúng ta không được hy vọng một cách ngây ngô. Chúng ta không được cứu bởi một biểu thức, nhưng bởi một Nhân vị và Người bảo đảm với chúng ta : Thày ở cùng anh em ! Bởi đó, vấn đề không phải là khám phá một ‘chương trình mới.’ Chương trình đã có sẵn rồi. Ðó là kế hoạch trong Tin Mừng và Truyền thống sống động.”[4]

Ngày nay, không một học thuyết nào có thể đưa ra giải pháp toàn bộ cho mọi vấn nạn xã hội. Lần đầu tiên, nhân loại cảm thấy gần gũi nhau như một gia đình. Nhưng cũng lần đầu tiên những điều căn bản nhất lại trở thành vấn đề bao trùm toàn thể nhân loại. Những giá trị lớn lao nhất như nhân quyền và tự do bị trù dập khắp nơi, chỉ vì những quyền lợi thấp kém nhất. Người ta cố tạo ra một quan điểm lệch lạc về nhân quyền để che dấu những mưu đồ và tham vọng đê hèn.

Giữa lúc nhân loại đang dẫy chết vì thất vọng trước những lời hứa hẹn của các học thuyết không tưởng, Chúa Kitô lên tiếng xác quyết : “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) Người hiện diện để phục sinh tất cả bằng sức mạnh Thánh Linh và Lời Chúa. “Cuối cùng, trung tâm điểm là chính Chúa Kitô. Cần phải hiểu biết, yêu mến và noi gương Người để trong Người, chúng ta sống đời sống Ba Ngôi, và với Người, chúng ta biến cải lịch sử cho đến khi hoàn thành trong Giêrusalem thiên quốc.”[5]

SỨC MẠNH PHỤC SINH TRONG GIÁO HỘI

Biến cải lịch sử đó là sứ mệnh Chúa giao cho Giáo hội trên trần thế. Bằng cách nào, nếu không phải bằng Lời Chúa ? Chính Chúa đã muốn Giáo hội tiếp tục dùng Lời Chúa phục sinh nhân loại. Bởi thế, trước khi về trời, Chúa không quên ra lệnh cho Giáo hội phải rao giảng Lời Chúa cho muôn dân (x. Mt 28:20). Ðó là một trách nhiệm, nhưng cũng là một vinh dự của Giáo Hội.

Hơn nữa, rao truyền Lời Chúa còn là một sứ mệnh cao cả của Giáo hội. Cao cả vì khi rao giảng Lời Chúa, Giáo hội có thể phục sinh nhân loại đang bị chôn vùi trong những cơ chế cồng kềnh và bất công. Nếu Giáo hội cũng là một cơ chế nặng nề, làm sao Giáo hội có thể chu toàn sứ mệnh phúc âm hóa thế giới ? Nếu Giáo hội cũng đầy dẫy bất công, làm sao có thể làm chứng và xây dựng Nước Thiên Chúa ? Nếu chỉ giản lược công việc của Chúa vào các lễ nghi, bí tích và guồng máy cai trị nội bộ, làm sao Giáo hội có thể làm cho Lời Chúa đến với muôn dân và thấm nhập vào con tim và cuộc sống con người cũng như xã hội ?

Đã đến lúc, mọi người cần nhớ rằng “vì sứ mệnh bao trùm toàn thể thực tại con người và vì ý thức mình ‘thực sự gắn liền với nhân loại và lịch sử của họ,’ nên Giáo hội có quyền đòi cho mình quyền đưa ra những phán quyết về thực tại con người, bất cứ khi nào Giáo hội được yêu cầu bênh vực những quyền căn bản của con người hay việc cứu rỗi các linh hồn.” [6] Không thể đứng ngoài nhìn vào cuộc sống con người, nhưng như Con Chiên Thiên Chúa, Giáo hội phải gánh lấy tội trần gian để tất cả được phục sinh trong Chúa Kitô. Như thế, Giáo hội mới có thể hoàn thành sứ mệnh Chúa đã trao phó cho mình trong xã hội hôm nay.

Tóm lại, nhờ Martha tin tuyệt đối vào quyền năng Chúa, Ladarô đã trở lại cuộc sống làm người. Chứng kiến tận mắt phép lạ lớn lao đó, nhiều người đã tin Chúa Giêsu. Lời Chúa quả thực là sức mạnh đã giúp Ladarô trỗi dậy. Lời Chúa cũng sẽ giúp nhân loại tìm được lối thoát cho mọi bế tắc hôm nay, nếu họ tin vào Chúa.

Lạy Chúa, xin sai Thánh Linh đến mở đường vào cõi sống cho chúng con. Giữa bao nhiêu những bế tắc cuộc sống hôm nay, xin cho chúng con luôn tin tưởng Chúa Kitô là lối thoát duy nhất cho toàn thể nhân loại.  Amen.

 
đỗ lực, 09.03.2008


[2] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 137.

[3] ibid.

[4] ibid., 577.

[5] ibid.

[6] ibid., 426.


Lm. Jude Siciliano, OP (
Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp)

Người gọi ta ra khỏi huyệt và nơi chết chóc
Ga: 11: 1-45

Bối cảnh trong bài đọc một, trích sách ngôn sứ Êzêkien rất quan trọng và việc nhìn ra sự sắp xếp của nó sẽ giúp chúng ta nghe và áp dụng sứ điệp của ngôn sứ vào hoàn cảnh thực tại của chúng ta. Ngay trước bài đọc hôm nay, ngôn sứ Êzêkien thấy một thung lũng đầy những xương khô. Ông nói với dân Dothái trong cuộc lưu đày ở Babilon. Cảnh ngộ của họ thật bi thương; tình trạng bị tù đày của họ giống như thung lũng đầy xương khô, thịt của họ đã bị kền kền và những con chim săn mồi rỉa hết. Ngay cả mồ mả để chôn họ cũng không có, chỉ còn xương rải rác bạc trắng dưới ánh nắng mặt trời. Tình trạng của họ được tóm lại trong một câu ngay trước bài đọc hôm nay: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan và chúng tôi đã rồi đời” (37,11).

 Ngôn sứ Êzêkien không chỉ nói đến sự đáng thương của từng cá nhân; ông còn nói về sự thê lương của cả một dân tộc trong cuộc lưu đày. Họ không chỉ bị bắt làm nô lệ, nhưng còn diễn tả tình trạng của họ như một sự trừng phạt của Thiên Chúa vì sự bất trung trong quá khứ của họ. Họ không thể tìm lý chứng biện hộ cho mình; không thể tìm cách biện hộ với Thiên Chúa để xin Người đến giải thoát họ.

 Nhưng Thiên Chúa sẽ giải thoát họ, không vì công trạng hay lời biện hộ dõng dạc và hùng hồn của họ, nhưng vì Thiên Chúa luôn khoan dung. Các xương một lần nữa sẽ mọc thịt và dân sẽ lại được sống nhờ thần khí của Thiên Chúa. Ngôn sứ Êzêkien mô tả sự kiện này bằng thuật ngữ, một cuộc sáng tạo mới. Đầu tiên, Thiên Chúa sẽ ban cho họ sự sống thể lý và sau đó: “Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh”.

 Tiếp đến, hình ảnh ám dụ này chuyển sang ngôn ngữ Xuất hành – đó là hồi tưởng lại việc Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, băng qua sa mạc và đặt họ vào đất hứa: “Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa”. Rõ ràng, Thiên Chúa quan tâm đến việc cứu dân, không chỉ đưa họ ra khỏi sự giam hãm thể lý, nhưng còn khôi phục sự sống thần linh cho họ: “Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh”.

 Trong khi bài đọc trích sách Ngôn sứ Êzêkien hôm nay và bài đọc Tin mừng về sự sống lại của Lazarô, cùng với lời hứa của họ về sự tha thứ và đời sống mới, mang đến cho chúng ta nguồn an ủi vào giữa Mùa Chay này, chúng ta không nên nhanh chóng cá nhân hoá sự điệp của họ. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng ngôn sứ Êzêkien đã ghi nhận một cộng đồng bị sụp đổ và bị bắt làm nô lệ, chứ không chỉ là những cá nhân riêng lẻ. Có lẽ, với ý tưởng đó, chúng ta cũng có thể nhận ra câu chuyện anh Lazarô vượt xa sự sống lại của một người chết trong mồ. Đó là một lời hứa về sự sống lại của chúng ta vào ngày sau hết. Cả hai bài đọc này đều nói đến một cộng đồng bị sụp đổ.

 Trong một bài giảng gần đây, một linh mục đã dùng một bài đọc kinh thánh trong thánh lễ ngày thường để áp vào những bê bối tình dục trong giáo hội. Ngài dùng vụ bế bối này như một ví dụ căn bản cho bài giảng. Sau đó, giáo dân đến gặp ngài và nói: “Chưa có ai từng công khai nói về sự bê bối cho cộng đồng giáo xứ của chúng ta. Đó như là một con voi trong phòng mà chúng ta phớt lờ xem như không có”.

 Ngôn sứ Êzêkien nhìn thấy một thung lung đầy xương người chết và Thiên Chúa hỏi ông: “Liệu các xương này có hồi sinh được không?” (37,3). Giáo hội chúng ta đã bị những vụ bế bối làm sứt mẻ. Theo một loạt những báo cáo thuộc toà án có tính phê bình cao đã cho biết sự lạm dụng do các linh mục gây ra và được các vị lãnh đạo Giáo hội che đậy, thế nên Hồng Y O'Malley của Boston với tư cách là sứ thần Toà thánh đã viếng thăm Giáo hội Ai len. Ngài đã hứa với Hội đồng linh mục công giáo và giáo dân ở đó rằng ngài sẽ “ chuyển tới Đức Giáo Hoàng sự đánh giá trung thực trong bản báo cáo mật được đệ trình cuối năm nay”. Sự đánh giá của Hồng y đệ trình lên Đức Giáo Hoàng Bênêđictô sẽ là “Giáo hội công giáo ở Ai len đang trên bờ vực sụp đổ do những vụ bế bối của hàng giáo sỹ.” (tác giả Michael Kelly, mục "The Tablet," tạp chí giáo phận Brooklyn, ngày 26 tháng 3, trang 1). Nếu quí vị biết được rằng Giáo hội công giáo Ai len có một truyền thống lâu đời và vẻ vang, hẳn là chẳng bao giờ quí vị nghĩ sẽ nghe một sự đánh giá như thế.

 Ngày nay, có nhiều xương khô và không sự sống nằm rải trong thung lũng của Giáo hội chúng ta. Trong thánh lễ này, chúng ta hãy khẩn nài Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá khôi phục sự chết và những phần bị thương tổn của chúng ta và dẫn đưa chúng ta đến sự sống mới. Xin Người ban Thần Khí xuống trên chúng ta, như hôm nay Người hứa thực hiện qua ngôn sứ Êzêkien: “Hỡi dân Ta, Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh…”. Chúng ta cũng nài xin Chúa cho chúng ta trỗi dậy khỏi huyệt mả của sự ngã lòng và tuyệt vọng với hơi thở của sự sống mới.

 Ngôn sứ Êzêkien chuẩn bị cho chúng ta quay trở lại với câu chuyện anh Lazarô. Anh Lazarô là một cá nhân, nhưng anh cũng là biểu tượng của cộng động Kitô hữu. Vì những ai nghe Lời Chúa đều được mời gọi ra khỏi huyệt để đến với sự sống mới. Lazarô cũng là biểu tượng của cơn khủng hoảng gần đây trong Giáo hội, với những xương người chết rải quanh chúng ta, mà chúng ta thấy khắp mọi nơi. Chúng ta hy vọng điều Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe về anh Lazarô cũng sẽ xảy ra cho chúng ta trong Giáo hội: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Hoặc, Thiên Chúa sẽ thực hiện điều Thiên Chúa đã hứa với ngôn sứ Êzêkien: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các người và sẽ đưa các người lên khỏi huyệt…”. Đó chính là điều mà Giáo hội cần thực sự cần và chờ đợi trong Phục Sinh này: nhờ Đức Kitô và quyền năng phục sinh của Người, chúng ta sẽ ra khỏi mồ của sự bê bối, để đến với sự sống mới của sự phục vụ và loan báo Tin mừng.

 Qua bài Tin mừng này, thánh Gioan đã cho thấy những “dấu” mà Đức Giêsu đã thực hiện – “những dấu” này sẽ cho chúng ta biết Người là ai. Câu chuyện anh Lazarô là một “dấu chỉ” khác liên quan đến Gioan. Có lẽ chúng ta hình dung ra một đời sống mới và phục sinh như điều gì đó sẽ chỉ xảy ra sau khi chúng ta chết. Nhưng khi chúng ta đọc Tin mừng Gioan, chúng ta nhận ra mọi điều Đức Giêsu hứa, hiện vẫn còn giá trị cho chúng ta. Chúng ta hãy lấy đoạn đối thoại với cô Mátta làm ví dụ, những gì Đức Giêsu dành cho chúng ta luôn ở “thì hiện tại”.

 Lúc đầu, cô Mátta trách Đức Giêsu vì đã trì hoãn đến với gia đình đang trong cảnh đau buồn của cô: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Khi này khi khác, có ai đã không nài xin Chúa giúp trong hoàn cảnh tuyệt vọng và nhận được sự đáp trả tức thời? Vào những lúc như vậy, chúng ta có cảm giác như mình có được chỗ dựa vững chắc! Như xảy ra trong một trình thuật khác của tin mừng Gioan, Đức Giêsu hứa với Mátta trong lúc trò chuyện. Như chúng ta thấy trong những cuộc đối thoại trước trong Tin mừng Gioan vào Mùa chay này, mỗi khi có một cuộc đối thoại với Đức Giêsu thì đều dẫn đến niềm tin sâu xa hơn “chẳng hạn, cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria, với anh mù bẩm sinh và bây giờ với cô Mátta).

 Đức Giêsu bảo cô Mátta rằng em cô sẽ sống lại. Cô nghĩ rằng Đức Giêsu ám chỉ sự phục sinh “vào ngày sau hết”. Nhưng sứ điệp thánh Gioan muốn chuyển tải là Đức Giêsu ban tặng cho chúng ta sự sống hiện tại, không chỉ vào thời gian sau hết. Đức Giêsu muốn ám chỉ chính Người hôm nay với một khẳng định khác “Ta là” (Ta là sự sống lại và là sự sống”. Đức Giêsu, trong Tin mừng Gioan, là chính thì hiện tại. Người không phải “Ta đã là” – hay chỉ là “Ta sẽ là”. Người là “Ta là!”.

 Xem ra hôm nay việc anh Lazarô sống lại chỉ là chuyện phụ thôi. Cuộc tranh luận với cô Mátta và sau đó là việc anh Lazarô sống lại nhằm nhấn mạnh và minh chứng cho việc Đức Giêsu nói về chính mình: “Ta là sự sống lại và là sự sống”. Trong Giáo hội của chúng ta và trong đời sống cá nhân, chúng ta cần điều Đức Giêsu đang hứa. Chúng ta cần Người là sự sống lại – đó là Người nói và gọi chúng ta ra khỏi huyệt và khỏi nơi chết chóc của chúng ta.

 

Lm. Jude Siciliano, O.P.

Hãy tín thác vào Đức Giêsu Kitô

Ed 37,12-14; Tv 129; Rm 8,8-11; Ga 11,1-45

Kính thưa quý vị,

Tin Mừng theo thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu thực hiện bảy “dấu lạ” liên tiếp: Dấu lạ đầu tiên tại Cana (Ga 2,11) và dấu lạ cuối cùng làm cho anh Ladarô sống lại. Thánh Gioan gọi những hành động đầy quyền năng này của Đức Giêsu là “dấu lạ” chứ không phải “phép lạ”. Dấu lạ được hiểu là điều đã khơi dậy sự ngạc nhiên của những người chứng kiến - còn hơn cả thốt lên “wow!” Chúng biểu thị sự hiện diện sống động của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện những dấu lạ này. Qua những dấu lạ, các tín hữu cảm nhận được “vinh quang” của Thiên Chúa, khởi đầu ở Cana. Đức Giêsu bày tỏ “vinh quang” này khi Người làm thay cho nhân loại vốn luôn phải đương đầu với những giới hạn, bệnh tật và cái chết. Trước khi làm cho anh Ladarô sống lại, Đức Giêsu đã cầu nguyện, biểu hiện sự kết hiệp nên một với Thiên Chúa; vì thế, những dấu lạ Đức Giêsu thực hiện cho thấy rõ việc Thiên Chúa hiến mình vì chúng ta.

Khi gặp Đức Giêsu, cả hai chị em cô Mácta và Maria cùng nói một điều: “Thưa Ngài, nếu Ngài ở đây, thì em con đã không chết.” Khi Đức Giêsu nói với cô Mácta: “Em chị sẽ sống lại”, thì cô tuyên xưng niềm tin rằng em của chị sẽ sống lại “vào ngày sau hết khi kẻ chết sống lại.” Tiếp đến, cô Mácta tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô rằng: “Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” Nhưng cả hai chị em cô Mácta và Maria đều không tin rằng Đức Giêsu sẽ làm cho người em đã chết của họ sống lại. Thực thế, khi Đức Giêsu truyền hãy đem phiến đá ở cửa mộ đi thì cô Mácta nói rằng: “Thưa Ngài, nặng mùi rồi, vì em con đã ở trong mồ được bốn ngày.”

Việc anh Ladarô sống lại là một dấu lạ. Dấu lạ này chỉ rõ Đức Giêsu là ai và khẳng định điều Người đã nói với cô Mácta rằng em cô sẽ sống lại “vào ngày sau hết khi kẻ chết sống lại.” Những ai tin vào Người, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Thực vậy, những ai tin vào Người “sẽ không bao giờ phải chết.” Quả thật, việc anh Ladarô sống lại củng cố niềm tin cho những ai đã tin vào Đức Kitô.

Đúng thế, nhưng cả hai chị em cô Mácta và Maria đều đặt ra một vấn nạn lớn cho Đức Giêsu rằng: “Nếu”, “Nếu có Thầy ở đây…” Trong hoàn cảnh đó, những người khác cũng sẽ nói thế này: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết sao?” Đức Giêsu đã chữa lành người mù, một kẻ Người không hề quen biết. Còn anh Ladarô là bạn thân của Đức Giêsu, tại sao Người nán lại, chần chừ không đến sớm và để anh phải chết?

Chúng ta cũng có thể hỏi “Tại sao sự việc lại ra nông nỗi thế này?” Tại sao Thiên Chúa lại cho phép những điều xấu xảy đến với chúng ta và với những người chúng ta thương mến? “Nếu” Thiên Chúa yêu thương thế gian, tại sao những điều tệ hại như thế lại xảy ra cho nhiều người? Hai chị em cô Mácta và Maria phải chờ đến bốn ngày sau khi anh Ladarô chết, Đức Giêsu mới xuất hiện. “Tại sao vậy?” Tại sao những lời cầu nguyện của chúng ta trong lúc ngặt nghèo lại không được Thiên Chúa mau chóng đáp lời? Chẳng có giải pháp hoặc câu trả lời dễ dàng cho những vấn đề hệ trọng này. Chẳng lẽ chúng ta lại không mong vấn đề được giải quyết hay sao? Thực ra chúng ta đang có “dấu lạ – điều kỳ diệu Đức Giêsu đã làm cho anh Ladarô, cho những người chị của anh, cũng như cho cả người Do Thái có mặt ở đó để an ủi hai chị em cô Mácta và Maria.  

Câu chuyện trên đây mời gọi chúng ta biết tin tưởng. Trong đoạn Tin Mừng này, “tin” là một hành động - bạn hãy tin. Cô Mácta không tuyên xưng niềm tin vào một đạo lý cụ thể nào, nhưng cô tin vào chính con người Đức Kitô - cô đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Đó là cách thức niềm tin khởi đầu bằng một tương quan ngôi vị với Đấng mà sau này Thánh Tôma sẽ lặp lại sau khi Đức Kitô phục sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

Nhiều nhân chứng thẩm định việc Đức Giêsu chữa lành anh mù – bài Tin Mừng tuần trước chúng ta đã nghe (Ga 9,1-41). Khi gặp lại anh sau khi anh đã được chữa lành, Đức Giêsu hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Trong Tin Mừng Gioan, thấy gắn liền với tin. Những người “thấy” dấu lạ thì tin vào Đức Kitô. Sau này, Đức Giêsu phục sinh nói với ông Tôma rằng: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chúng ta không có mặt ở đó để chứng kiến tận mắt những dấu lạ mà Đức Giêsu đã thực hiện. Nhưng nhờ có những dấu lạ mà Tin Mừng Gioan mặc khải, chúng ta thực sự “thấy” và đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô.

Anh Ladarô là hình ảnh của mỗi chúng ta. Trong ngôi mộ, anh bị cái chết trói buộc. Có bao nhiêu người rõ ràng còn sống mà dường như cận kề với cái chết dưới hình thức này hay hình thức khác? Một cái chết dần mòn do quá sợ hãi, lo âu, lệ thuộc, đau ốm, công việc bế tắc, tương quan đổ vỡ, hành vi tiêu cực, v.v… Dù chết theo hình thức nào, chết thực sự hay chết dần mòn, hôm nay chúng ta cũng cần phải lắng nghe lời Đức Giêsu mời gọi “Hỡi …., hãy ra khỏi mộ!” Chỗ để trống ấy là tên của quý vị.  

Đức Giêsu không muốn chỉ ban cho chúng ta một thứ nước tăng lực có chứa hàm lượng chất kích thích cao. Người muốn chúng ta tận hưởng một cuộc sống được phục sinh, ngay cả đối diện với cái chết của thân xác. Chủ đề này được lặp lại xuyên suốt Tin Mừng Gioan: Nếu tin vào Đức Kitô, chúng ta sẽ có sự sống đời đời, vì chưng chúng ta được chia sẻ sự sống của Chúa Cha và Chúa Con.

Chúng ta đang kết thúc Mùa Chay, chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô và của chúng ta nữa. Trong suốt Mùa Chay, có lẽ chúng ta đã xác định được đâu là “những khoảng tối” trong tâm hồn, và những lối sống nào đã làm hao mòn cuộc đời chúng ta. Từ ngôi mộ này hay ngôi mộ kia, chúng ta nghe thấy Đức Giêsu đang hoàn tất lời Người đã hứa xưa kia trong Tin Mừng theo thánh Gioan rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, giờ đã đến và chính là lúc này đây, giờ kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa và những ai nghe tiếng Người sẽ được sống” (Ga 5,25).

Chúng ta hy vọng rằng Mùa Chay đã không khiến chúng ta thấy quá sợ hãi vì tội lỗi và thiếu sót của mình. Những Chúa Nhật Mùa Chay cho chúng ta cơ hội lắng nghe Lời ban sự sống của Thiên Chúa. Có lẽ những thực hành Mùa Chay thánh của chúng ta bao gồm cả việc đọc và cầu nguyện bằng Lời Chúa trong những Thánh Lễ hằng ngày, hoặc tại nhà. Nếu chú tâm, hẳn chúng ta đã nghe ngôn sứ Êdêkien trong bài đọc một: Thiên Chúa muốn “mở tung các huyệt mả cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi đó”, và nhớ lại điều Tin Mừng Gioan đã nói: Đức Giêsu là “sự sống lại và là sự sống.”

Chúng ta được đồng hoá với anh Ladarô trong suốt câu chuyện, từ đầu đến cuối. Khi anh Ladarô bước ra khỏi mồ, Đức Giêsu truyền bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” Tôi nghĩ rằng anh Ladarô, kẻ được giải thoát khỏi sự chết, đã trở lại sống cuộc đời mới của một con người đã hoàn toàn thay đổi. Quý vị có nghĩ thế không?

Chẳng lẽ anh Ladarô lại không biết trân trọng cuộc đời mới của mình sao, đấy là điều mà một người sống sót sau căn bệnh hiểm nghèo vẫn thường làm cơ mà? Có một người sống sót sau căn bệnh ung thư chia sẻ với tôi rằng: “Giờ con chẳng lãng phí với những chuyện nhỏ nhặt trong cuộc sống nữa.” Tôi thiết tưởng anh Ladarô sẽ coi trọng và đáp lại tình thương mà những người chị đã dành cho anh. Anh sẽ rất vui mừng và trân trọng những món quà đơn sơ mà trước đây mình đã xem nhẹ, chẳng hạn như nước uống, bữa ăn gia đình, đùa vui với bạn bè, những bông hoa dại, một nụ cười của trẻ thơ, những chú chim, những con vật nuôi, v.v…

Khi Mùa Chay khép lại và cuộc sống mới được mở ra cho chúng ta nhờ sự Phục Sinh của Đức Kitô, chúng ta hoà chung niềm vui với cô Maria, cô Mácta, anh Lazarô và nhiều người Do Thái có mặt ở đó đã “nhìn thấy điều Đức Giêsu thực hiện và bắt đầu tin vào Người.” Lúc này đây, chúng ta đánh giá lại xem mình đã sống thế nào, hãy để ý xem đâu là những thứ ưu tiên không hợp lý, hãy tập trung vào cuộc sống hiện tại chúng ta đang có trong Đức Kitô, và hướng tới lời hứa trong tương lai Người dành cho chúng ta. Giờ đây cũng là lúc chúng ta nghĩ đến những người đang cần sự giúp đỡ trong gia đình, trong cộng đoàn và thế giới, rồi thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, con có thể làm gì để giúp họ được giải thoát và đem lại tự do cho họ?”