Ngày 26 tháng 06
Thánh Đaminh HENARES MINH (XUÂN)
Giám mục ḍng Đaminh - (1765 – 1838)

Lời kinh và ước vọng

Lạy Chúa Giêsu rất dịu hiền là cha của ḷng con. Xin Chúa v́ cuộc tử nạn thánh, v́ công nghiệp và lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin đoái thương đến bác của con, Đưc Giám mục Đaminh. Xin ǵn giữ bác khỏ mọi sự dữ. Xin cho bác yêu Chúa thiết tha, trung thành phục vụ Chúa suốt cuộc đời. Và nếu cần để tôn vinh và làm hiển danh Chúa hơn, xin cho bac được phúc đổ máu ḿnh và hiến dâng mạng sống cho t́nh yêu Chúa để làm chứng cho đức tin. Amen"(1).

Đó là lời kinh mà Đức Cha Minh từ miền truyền giáo Việt Nam đă soạn gửi về quê nhà cho cháu mới năm tuổi đọc cầu cho bác. Cô bé đă dâng lời nguyện đó hằng ngày, dù em biết rất ít về người bác ḿnh. Khi bà con lối xóm hởi em về ông bác giám mục, em chỉ biết thưa : "Bác tên Đaminh, tu ḍng Đaminh, đang truyền giáo ở xa, thật xa, nơi mà người ta đang tàn sát các Kitô Hữu". Và chúa đă nhận lời khẩn xin tha thiết của hai bác cháu tại hai phương trời xa xăm đó.

Theo tiếng gọi truyền giáo.

Đaminh Henares sinh ngày 19.12.1765 tại làng Baena, giáo phận Cordoda, nước Tây Ban Nha. Một vài năm sau, gia đ́nh dọn về Granada, nơi cậu đă lớn lên và theo học các lớp phổ thông, các phụ huynh thường nhắc đến cậu như một mẫu gương cho con cái ḿnh. C̣n bản thân cậu, càng ngày càng sôi sục trong ḷng tiếng Chúa kêu gọi vào đời sống tu tŕ. Năm 16 tuổi, Henares xin nhập ḍng tu Đaminh ở tỉnh Granada. Nhưng măi đến ngày 30.08.1783, cậu mới được lănh tu phục ḍng tại tu viện Guadix (18 tuổi), năm sau th́ tuyên khấn và theo học triết học. Ngay từ niên khóa đầu, thày Henares đă tỏ ra là một sinh viên xuất sắc, nên cuối năm đó, khi thày xin phép chuyển qua tỉnh ḍng Rất Thánh Mân Côi để được truyền giáo ở Việt Nam, các bề trên đều tiếc nhớ. Thày Đaminh đă nhận ra tiếng Chúa kêu mời qua lời cổ động khẩn thiết của Đức cha Obelar Khâm, giáo phận Đông đàng Ngoài : Đă 15 năm giáo phận chưa thêm được một thừa sai nào cả.

Thế là thày Henares liền tham gia một nhóm tu sĩ trẻ lên đường đến Phi Luật Tân dưới sự dẫn dắt của tu sĩ Delgado. Kể từ nay cuộc đời hai vị gắn liền với nhau cách khăng khít. Sau hơn một năm lênh đênh trên biển cả, vượt Đại Tây Dương và Thái B́nh Dương, phái đoàn đă cập bến Manila ngày 09.07.1786. tại đây thày Henares vừa tiếp tục học thần học, vừa dạy văn chương cho học sinh trường Santo Tomas. Ngày 20.09.1789 thày thụ phong linh mục và được gửi đi truyền giáo tại Bắc Việt. Khi đến Macao, cha Henares gặp lại linh mục Delgado đă khởi hành trước một năm nhưng vẫn chưa tới Việt Nam. Hai cha cùng với hai thừa sai khác là Vidal và Gatillepa, cả bốn vị đă vào lănh thổ giáo phận Đông Đàng Ngoài ngày 29.10.1790, trong niềm hân hoan của cả giáo phận, v́ khi đó chỉ c̣n ba vị thừa sai, mà tất cả đều đă cao niên.

Riêng cha Henares Minh, với tuổi trẻ 25, cha học tiếng Việt rất nhanh chóng. Sau sáu tháng, cha đă được trao phó việc coi sóc chủng viện Tiên Chu. Trong nhiều năm, cha kiên tŕ dạy các chủng sinh học tiếng Latinh và giúp họ rèn luyện các nhân đức. Từ năm 1789, giữa cơn bách hại của vua Cảnh Thịnh, cha được tỉnh ḍng ủy nhiệm làm bề trên phụ tỉnh (cha chính) các cha ḍng Đaminh tại Việt Nam. Năm sau, khi đức cha Alonso Phê qua đời, Đức cha Delgado Y lên kế vị, cha Minh được đặt làm cha chính của giáo phận. Ngày 09.09.1800, Đức cha Piô VII bổ nhiệm cha làm giám mục hiệu ṭa Fez và Giám mục Phó có quyền kế vị của Đức cha Delgado Y. Nhưng t́nh h́nh Việt Nam căng thẳng, sau hai năm sắc phong mới tới xứ truyền giáo.

Vị mục tử nhân hiền

Ngày 09.01.1803 là ngày hội lớn của toàn giáo phận Đông Đàng Ngoài. Các thừa sai ngoại quốc, hơn 30 linh mục Việt Nam, hàng chục ngàn giáo dân từ các nơi tuốn về Phú Nhai tham dự lễ tấn phong Giám mục phó Henares Minh, khởi đầu một giai đoạn b́nh an kéo dài hơn 20 năm. Hai vị giám mục Delgado Y và Henares Minh, hai anh em "sinh đôi" như một số người quen gọi, cùng mang những thao thức như nhau, cùng được đào tạo một nơi, cùng đến đất Việt một ngày… từ nay luôn tâm đầu ư hợp, cùng nhau đưa giáo phận đến giai đoạn cực thịnh. Hai vị chia nhau đến thăm từng họ đạo nhỏ nhất. Đức cha Minh với tinh thần phục vụ cao, thường chọn cho ḿnh những họ đạo xa hơn, thuộc trấn Kinh Bắc, nơi rừng sâu nước độc mà trước đó ít năm, Đức cha Phê đă bỏ mạng v́ bệnh sốt rét rừng.

Linh mục Hermosilla Vọng đă viết về Đức cha Minh như sau : "Ngài là một thủ lănh thanh khiết trong đời sống, là vị mục tử nhiệt tâm không hề mỏi mệt v́ ơn cứu độ các linh hồn và là đấng khao khát mănh liệt phúc tử đạo. Ngài sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào trách nhiệm đ̣i hỏi, dù đang nửa đêm khuya vắng. Ngài có ḷng đạo đức trổi vượt, biểu lộ qua việc cầu nguyện không ngừng, đồng thời siêng năng nghiên cứu các giáo phụ. Ngài sống nghèo khó Tin Mừng thực sự, và như một người cha hiền dịu, ngài quảng đại với những người xấu số nhất. Đó là những nhân đức chính mà ngài luôn nêu gương".

Với ḷng khiêm tốn, bác ái, Đức cha Minh nhiệm nhặt với ḿnh, nhưng lại rộng lượng với mọi người. Tuy bận rộn với bao công việc của giáo phận, ngài vẫn tự may vá lấy y phục của ḿnh, và cố gắng sửa lại những quần áo cũ để phân phát cho người nghèo. Nhờ biết chút ít về nghề thuốc, Đức cha là ân nhân của nhiều người bệnh tật. Đi dâu ngài cũng mang theo một hộp nhỏ đựng thuốc phát cho bệnh nhân nan y, mọi người đều cho là họ được khỏi do lời cầu nguyện và chúc lành hơn là nhờ thuốc.

Nếu giờ chưa đến….

Chính tráp đựng thuốc bác ái đó một lần kia đă cứu ngài thoát chết. Khi ngài đang ở họ Thượng Hộ thuộc Sơn Nam Hạ th́ bị một nhóm cướp bắt cóc để tống tiền. Giữa đêm chúng lẻn vào nhà, bắt và dẫn Đức cha vào rừng. Bỗng tên cướp ôm chiếc tráp thuốc vấp ngă, những chai lọ đổ lỏng chỏng ra ngoài, một vài dụng cụ kim loại lấp lánh trong đêm, khiến chúng tưởng là vàng bạc xô lại trang giành, Đức cha liền nhanh chân láu ḿnh trong một bụi cây rậm rạp gần đó. Đám cướp sục sạo một lát th́ trời tảng sáng và nghe dân làng đánh kẻng báo động đi t́m Đức cha, họ ùa nhau bỏ chạy.

Theo ư Tổng trấn Hà Nội Nguyễn Văn Thành, ông muốn tổ chức một buổi trao đổi công khai về tôn giáo. Đức cha Minh cùng đức cha Longer Gia giáo phận Tây Đàng Ngoài nhận lời và đưa ra đề tài : "Không ai được bắt ép người Công Giáo làm việc dị đoan". Nhưng v́ tổng trấn không chấp nhận đề tài đó, nên cuộc trao đổi phải băi bỏ. Đức cha Minh thấy vậy đă nhận định rằng : "Bao lâu c̣n thiếu ánh sáng bởi trời th́ lư luận mấy cũng vô ích".

Khi vua Minh Mạng lên ngôi được vài năm, miền bắc có nhiều cuộc khởi nghĩa: Lê Duy Lương, Nùng Văn Vân… Ở Nam Định và Hải Dương có Phan Bá Vành. Nói chung dân Bắc Hà vẫn c̣n hoài nhớ triều Lê, chứ không ưa triều Nguyễn. Chính Gia Long phải mượn cớ pḥ Lê để thống nhất cả nước. Lúc đó, thế lực nhóm Phan Bá Vành ngày càng lớn, năm 1862, vua Minh mạng phải cử Lê Văn Duyệt và Nguyễn Công Trứ ra đánh dẹp. Quân của Vành thua rút vào làng Trà Lũ, cầm cự được ba tháng, mới bị bắt, cuộc chiến thắng này có phần đóng góp của hơn 300 giáo hữu, thế nhưng v́ trong số tù nhân cũng có những người Công Giáo, họ khai là có biết Đức cha Minh và 10 cha ḍng người Việt, khiến từ đó Đức cha bị ghi vào "sổ đen" của nhà vua.

Ngày 13.05.1827, Tổng đốc Nam Định thừa lệnh nhà vua đem 800 quân và voi trận đến vay Trà Lũ bắt Đức cha, nhưng ngài đă kịp biết tránh đi nơi khác. Dù rất mong mỏi được đổ máu làm chứng cho t́nh yêu Chúa, Đức cha thường tâm sự rằng tử đạo là ơn phúc trọng đại, không ai được tự tiện liều lĩnh ngoài thánh ư Chúa. Tiếp theo đó là 10 năm phục vụ, tuy có phần khó khăm âm thầm hơn, nhưng nói chung giáo phận Đông Đàng Ngoài vẫn tương đối được b́nh an. Cho đến tháng 04.1838, v́ phát hiện sáu lá thư của cha Viên gởi cho giám mục và bốn linh mục, nhà vua biết có sự hiện diện của các ngài. Vua đă khiển trách Tổng đốc Trịnh Quang Khanh nặng lời, và phái thêm 2000 lính kinh đô ra tăng viện, quyết lùng bắt hết các giáo sĩ. Đức cha Minh và thày Chiểu phải bỏ Tiên Chu đi ẩn tại Kiên Lao, gần chỗ Đức cha Y và hai vị thừa sai khác. Ngày 28.05, khi Đức cha Y bị bắt, Đức cha Minh đang lánh thân trong nhà bà Tư, giả bộ xay lúa, mỗi khi quân lính đi ngang, bà Tư lấy nong che mặt cho ngài.

Bản án phải được sửa lại.

Tối hôm đó, Đức cha Minh bỏ nhà bà Tư đi sang làng Trung Thành, rồi làng Quần Anh và Xương Điền. Khi thấy quân triều đ́nh lảng vảng theo dơi, Đức cha và thày Chiểu xuống thuyền đi ngược ra biển. Một ngư phủ ngoại giáo nói với các tín hữu : "Coi chiếc thuyền ngược gió kia, tôi đóan là một thừa sai chạy trốn cuộc bách hại mà chưa biết về đâu. Các bác t́m cách đưa ngài vào đây, tôi sẽ lo liệu chỗ trọ và che dấu giùm cho". Quá tin vào ông ta, các tín hữu ra mời ngài trở lại, ai ngờ ông ta đi báo quan quân đến bắt đức cha và thày Chiểu tại nhà ḿnh.

Quan phủ Xuân Trường đối đăi với Đức cha khá tử tế, nhưng v́ sợ nhà vua, ông đành phải đóng cũi và ván ép giải lên Nam Định ngày 11.06.1838. tại đinh Tổng đốc, có hai chiếc cũi của ngài và của đức cha Y được đặt gần nhau, hai vị nói truyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Không rơ các vị nói những ǵ, nhưng chắc chắn quả là niềm an ủi lớn lao, khi được chia sẻ với nhau những tâm sự thầm kín. Gần nửa thế kỷ sát cánh bên nhau trên đường về Thiên Quốc. Mọi người thấy rơ niềm vui lộ trên khuôn mặt của hai vị.

Khi quan ṭa đ̣i Đức cha Minh phải kư vào bản án đă viết sẵn, ngài yêu cầu cho nghe trước rồi mới kư. Vừa nghe đọc hai chữ "Tả Đạo", Đức cha cắt ngang : "Xin quan sửa lại chữ đó thành đạo Đức Chúa Trời". Quan đồng ư và sửa lại. Khi đọc đến chữ "…lừa đảo ngu dân", Đức cha lại lên tiếng : "Không đúng, chúng tôi không lừa đảo ai, chúng tôi chỉ đến đây giảng đạo chân chính". Đức cha không chịu kư vào cho đến khi quan ông ư sửa bản văn lại. Ngày 12.06, bản án được gửi về kinh đô, nhà vua châu phê và gởi lại Nam Định ngày 25.06, Đức cha c̣n được một ngày để chuẩn bị tâm hồn lănh phúc tử đạo.

Chứng tá cuối cùng.

Một số binh sĩ Công Giáo giữ đạo cách bí mật đă bỏ tiền ra xin được vinh dự khiêng cũi Đức cha. Và trước khi khởi hành ra pháp trường, nhiều binh sĩ đă trót nhát sợ đạp lên Thánh Giá, đến quỳ khóc lóc trước cũi, xin Đức cha cầu nguyện và tha thứ. Đức cha đă nhân ái an ủi họ và giúp họ thống hối đền tội. Trên đường đến Bảy Mẫu, Đức cha Minh trong cũi với nét mặt hân hoan, miệng thầm thĩ nguyện kinh và giơ tay ban phép lành cho các tín hữu đang khóc thương hai bên đường. Thày Chiểu mang gông đi phíaa sau. Cuối cùng là năm binh sĩ không chịu bước qua Thánh Giá, trong đó có ba vị tử đạo sau này là Augustinô Huy, Nicolas Thể và Đaminh Đinh Đạt, nhưng hôm ấy đến nửa đường, cả năm binh sĩ đều được đưa trở về ngục.

Tại pháp trường, Đức cha Minh muốn chứng kiến cái chết kiên trung anh dũng của người môn đệ quư yêu : thày Phanxicô Chiểu, Đức cha xin xử trảm thày trước. Viên quan đồng ư. Thế là quân lính xử chém và trao đầu thày cho vị Giám Mục. Ngài trân trọng đón lấy, rồi ngửa mặt lên trời cầu nguyện trang nghiêm như đang dâng lễ vật đẫm máu lên Thiên Chúa. Đến lượt ḿnh, Đức cha nghiêng đầu cho lư h́nh thi hành quân sự. Hôm đó là ngày 26.06.1838, Thiên Chúa đă gọi Đức cha Henares Minh về trời lănh ngành thiên tuế tử đạo, chấm dứt 73 năm trên dương thế với 43 năm phục vụ tại Việt Nam, 38 năm giám mục.

Thi hài Đức cha được lư h́nh an táng ngay tại pháp trường, nửa tháng sau các tín hữu cải về Lục Thủy. Đầu của ngài bị treo ở cổng thành ba ngày, rồi ném xuống sông Vị Hoàng, vài ngày sau một dân chài Công Giáo may mắn vớt được, các tín hữu đưa về táng chung với thi hài. Về sau khi ngưng bách hại, họ long trọng đưa hài cốt Đức cha về ṭa Giám mục Bùi Chu.

Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Henares Minh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.