Ngày 06 tháng 12
Thánh Giuse NGUYỄN DUY KHANG.
Thày Giảng ḍng ba Đaminh - (1832 – 1861)

Một môn sinh trung thành.

Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang được các tín hữu Việt Nam tôn kính trong số bốn thánh tử đạo Hải Dương. Tuy thánh nhân tử đạo sau hơn một tháng, nhưng vẫn được chung vinh dự với linh mục Almate B́nh, hai Giám mục Valentinô Vinh và Hemosilla Liêm, v́ đă cùng đồng lao khổ với ba vị huynh trưởng đó trong ḍng Đaminh.

Là người trợ tá của Giám mục Hemosilla Liêm, thày Giuse Khang đă theo sát gương cha chung của giáo phận Đông Đàng Ngoài trong những ngày lưu lạc. Rồi khi quân lính vây bắt Đức cha th́ với nhiệt tâm của thánh Phêrô tông đồ xưa trong vườn cây dầu, thày định dùng vơ lực để chống cự. Nhưng sau cùng, thày đă nghe lời của vị mà ḿnh muốn bảo vệ. Thày chấp nhận bị bắt để làm chứng cho điều cao thượng hơn : Làm chứng cho t́nh thương, cho ḷng nhân ái và thứ tha của Tin Mừng.

Một tu sĩ đạo đức

Giuse Nguyễn Duy Khang chào đời năm 1832, tại Cao mại, xă Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái B́nh. Cha mẹ cậu là những giáo hữu đạo đức, hướng dẫn các con vào đời sống đạo ngày tư nhỏ. Nhưng cha cậu đă sớm qua đời, cậu được mẹ săm sóc tận t́nh. Bà lo niệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ư muốn hiến dâng đời ḿnh cho Thiên Chúa và gởi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha Matthêu Năng ḍng Đaminh.

Sau mười năm sống với vị linh mục lăo thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Latinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục tương lai. Giai đoạn này thày Giuse Khang xin gia nhập ḍng ba Đaminh, và được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng tràng điều hành mọi ông việc trong nhà như lao động, nấu ăn, liên lạc cới các bề trên. Mặc dù bận rộn, thay Khang vẫn nêu gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đă tiếp xúc với thày đều nói thày đạo đức, có tính cương trực, nhưng lại luôn luôn ḥa nhă với hết thảy mọi người.

Khi đó, Đức cha Hemosilla Liêm cũng ở Kẻ Mốt đă tín nhiệm thày cách đặc biệt và chọn thày làm người phụ tá riêng. Thày Khang vui vẻ phục vụ Đức cha cách tận t́nh : từ việc dọn bàn thờ, sắp xếp các hồ sơ, sao chép các hồ sơ luân lưu, cho đến công tác cơm nước, liên lạc. Có lần thày c̣n đào hang trú ẩn cho hai cha nữa.

Mẫu gương can đảm.

Giáo Hội Việt Nam lúc ấy đang trong t́nh trạng bị bách hại khốc liệt, dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia Tô trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ phân sáp ngày 05.8.1861. theo chiếu chỉ đó, mọi tín hữu Gia Tô già trẻ lớn nhỏ, nam nữ đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. các tín hữu bị khắc chữ trên má, gia đ́nh bị phân chia, vợ một nơi, chồng một nẻo, con cái mỗi đưa một miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.

Trong bối cảnh đó, ngày 18.9, Đức cha Hemosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định giải tán chủng viện Kẻ Mốt. linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh: "Anh em khỏi chào Đức cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt". Riêng thày Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức cha cho tới cùng. Khi giă từ các bạn, thày nói nửa đùa nửa thật: "Tôi nhất định theo Đức cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi. Đức cha chết v́ đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu c̣n chân sợ ǵ". Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thày Khang vẫn vui tươi nhờ ḷng tin tưởng phó thác và tâm t́nh hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.

Ba tuần lễ đầu, thày Khang cùng với Đức cha sống trong hang trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan quân đă phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền đánh cá. Thày Khang chèo thuyền qua thị xă Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đă thành "Ṭa Giám mục lưu động" của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị t́nh cờ gặp Đức cha Valentinô Vinh và linh mục Almatô B́nh đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn Chúa v́ cơ may đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội. Đến sáng, các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngả.

Một hôm gia đ́nh Trương Bính xảy ra cuộc căi lộn. Người con trai tức giận với cha mẹ nên tố cáo ông bà chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội Bảng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha. Thấy họ tới nơi, thày Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến đứng chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo : phải bước qua xác tôi, rồi muốn bắt ai th́ bắt.

Nhưng vị Giám mục khả kính và nhân ái đă đến nắm lấy vai thày, ngài nói: "Đừng làm ǵ hại họ, hăy phó mặc cho ư Chúa". Thày Khang ngỡ ngàng quay lại nh́n người cha già và chợt hiểu ra ư ngài, thày chỉ nói được một lời : "Thưa vâng", rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.

Vị tử đạo Hải Dương

Một tháng rưỡi trong tù, thày Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thày liền tổ chức cho cả pḥng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, và mỗi tối làm việc thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thày bị đưa ra ṭa tra tấn ba lần, bị đánh đ̣n khắp hai bên mông. Lần nào thày cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đ̣n, các giáo hữu trong ngục đều nấu nước rửa và xoa bóp cho thày dịu bớt cơn đau.

Đặc biệt ở trong tù, thày Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. một lá thư thày viết : "Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi Đức cha đă ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui ḷng chịu đ̣n. Xin anh em cầu nguyện cho tôi".

Trong lá thư khác thày viết : "Anh em cho tôi một cái quần, v́ quần tôi cũ, phải đ̣n nhiều đă rách nát. Cũng xin gửi cho tôi một cái khăn để khi tôi chết, có cái mà liệm xác đem chôn".

Ngày 06.12.1861, thày Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gửi ra, thày vui vẻ theo lịnh ra pháp trường Năm mẫu, nơi đă thấm máu người cha kính yêu của thày ngày 01.11 trước đó. sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi thể ngay ở ngoài ruộng.

Năm 1867, theo lệnh của Đức cha Hy, thày cai Hinh, anh ruột của vị tử đạo đă dời hài cốt em của ḿnh về nhà nguyện Kẻ Mốt.

Ngày 20.5.1906, Đức Thánh Cha Piô X suy tôn thày Giuse Nguyễn Duy Khang lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.