Phải đi và làm như vậy

 

 

Phải đi và làm như vậyNét đẹp của Ki-tô giáo đó là tình yêu thương. Và, tình yêu thương trong Ki-tô giáo đã được xem như là điều răn quan trọng của người Ki-tô hữu. Thật vậy,  trong phần kết của bài kinh Mười Điều Răn, người Ki-tô hữu được dạy rằng: “Mười  điều răn ấy tóm về hai điều này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”. Hai điều này, ngày nay chúng ta quen gọi là “Mến Chúa và yêu người”.

Mến Chúa và yêu người… nói theo cách nói dân gian, có thể ví đó như là hai mặt của một đồng tiền. Chính vì thế tông đồ Gio-an đã mạnh mẽ khi nói:  “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (x.1Ga 4, 20).

Vâng, nói là vậy, nhưng thực tế quả là yêu thương người anh em, người thân cận mà chúng ta trông thấy không giản dị chút nào. Trong thời Đức Giê-su, đã có người đến hỏi Ngài rằng: “Ai là người thân cận của tôi?”. Hôm ấy, Đức Giê-su đã dạy cho người đó (và hôm nay là chúng ta)  một bài học, một bài học để nhận ra ai là anh em, ai là người thân cận của mình. Bài học đó được thánh sử Luca ghi lại với tiêu đề “Dụ ngôn người Samari tốt lành”.

Dụ ngôn được kể lại như sau: Hôm ấy, có người thông luật kia đến gặp Đức Giêsu và hỏi Ngài rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (x.Lc 10, 25).

Đây không phải là lần đầu tiên có người tìm đến Đức Giêsu để hỏi Ngài một câu hỏi với nội dung như thế. Trước đây, cũng đã có một chàng thanh niên giàu có đến với Đức Giêsu, cũng với ý ngay lành nêu trên. Với chàng thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã đưa ra những lời khuyên, để nhờ đó, anh ta có thể đón nhận được điều anh ta muốn có. Ngài có lời khuyên rằng: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo…”. Tiếc thay! Thanh niên giàu có này  “còn lắm bon chen… còn lắm đam mê…”, cuối cùng, anh ta quay gót ngậm ngùi than rằng: “thôi đành hẹn lại kiếp sau”.

Với người thông luật hôm nay, Đức Giê-su “đi guốc trong bụng” ông ta. Ông ta hỏi như thế chẳng qua là “để kiếm chuyện” với Ngài. Thánh sử Luca cho biết ông ta hỏi là “để thử Người”.

Thế nên,  thay cho lời khuyên, Ngài đã hỏi ngược lại, một câu hỏi ngầm ý như một lời trách cứ, hỏi rằng: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”

Sau khi nghe Đức Giêsu đặt câu hỏi cho mình, không một phút chần chờ, vị thông luật đã trả lời “ngọt sớt”, rằng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.

Đấy! Thấy chưa! Người thông luật, chính là thầy thông giáo, thầy thông giáo chính là người am hiểu, rành rẽ luật Môse, luật Môse được ghi trong ngũ thư là những cuốn sách nói rất rõ về Mười Điều Răn, về lề luật, về lễ nghi thờ phượng Đức Chúa Trời.  Vậy mà hôm nay “giả nai” trước mặt Đức Giê-su…

Vâng, sau khi con nai mang nhãn mác thầy thông luật đọc vanh vách điều luật được ghi trong sách Đệ Nhị Luật, một điều luật mà mọi người Do Thái ngoan đạo đều đọc đến hai lần trong ngày, Đức Giê-su đáp lại bằng một lời khen, khen thật sự, rằng: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

Mọi sự tưởng chừng như kết thúc ở đây. Thế nhưng, ông thầy thông luật này không chịu dừng ở đó. Ông ta còn muốn chất vấn Đức Giê-su, một sự chất vấn rất thâm hiểm, biến câu trả lời của mình thành câu hỏi, một câu hỏi hóc búa, trước là để thử Đức Giêsu, sau là để chứng tỏ mình-có-lý. Hôm ấy, ông ta hỏi Đức Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”

Ai! “Ai là người thân cận của tôi ?” Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu, một lần nữa, Ngài đã dùng một dụ ngôn, “dụ ngôn người Samari tốt lành”.

Chính dụ ngôn này nó đã gây nguồn cảm hứng cho các nhà làm luật thời nay. Thật vậy, giới luật pháp quốc tế ngày nay đã biến nó thành một đạo luật mang tên “luật người Samari nhân hậu”.

Đây là một đạo luật rất cũ, nhưng thiết tưởng chúng ta cũng cần biết, qua phần chia sẻ của Lm. Jude Siciliano, OP, trong một bài giảng về chủ đề người Samari nhân hậu, rằng: “Trong thế giới luật pháp, có ‘luật người Samari nhân hậu’, luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samari nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn”.

Vâng, dụ ngôn được kể rằng: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-cô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết”.

Thật bi thảm và đáng thương, phải không, thưa quý vị? Ấy vậy mà… vậy mà có người đi qua đó, nhìn thấy hình ảnh bi thương đó, họ vẫn bỏ đi.

Thứ nhất là thầy tư tế. Thứ hai là thầy Lê-vi. Cả hai người, kẻ trước người sau, đều đi trên một lộ trình, lộ trình từ “Giêrusalem xuống Giêricô”. Cả hai đều nhìn thấy cảnh bi đát của người lữ khách. Không thể tin được, cả thầy tư tế lẫn thầy Lêvi đều “tránh qua bên kia mà đi”.

May thay! Sau đó, có một nhân vật thứ ba xuất hiện. Đó là một người, mà Do Thái giáo gọi họ là dân ngoại, một người Samari. Vâng, anh ta cũng thấy, nhưng không bỏ đi. “Động cơ nào… động cơ nào…” Thưa, đúng ra phải nói là: động lực nào thúc đẩy anh chàng Samari không bỏ đi! Thưa, thánh Luca kể: “Một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương”.

Thì ra, lòng thương xót chính là động lực, một động lực không đẩy tới mà kéo lùi lại, kéo người Samari lùi đúng ngay chỗ người lữ khách nằm thoi thóp chờ chết.

Câu chuyện kể tiếp rằng: “Ông ta lại gần”. Lại gần làm gì? Để xem trên con người bất hạnh này còn thứ gì quý giá “hốt hụi chót” chăng! Thưa không. “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (x.Lc 10, 34)

Khi tới quán trọ, chàng Samari còn “lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” (x.Lc 10, 35)

Sau khi kể tới đây, Đức Giê-su hỏi người thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Rất nhanh, không đầy ba mươi giây, ông thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”.

Vâng, câu trả lời của thầy thông luật rất đúng. Và, đó là lý do, hôm ấy, Đức Giê-su đã có lời bảo ông ta, rằng: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.

Chúng ta vừa nghe lại “Dụ ngôn người Samari tốt lành”. Và, thông thường chúng ta kết luận rằng: nên hành xử như người Samari, chứ đừng “quăng cục lơ” như hai vị tư tế và Lê-vi.  OK. Làm được như thế quá tốt.

Sẽ là tốt khi chúng ta biết rằng: “Bất cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta đều là người thân cận” của chúng ta. (lời của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô).

Ai cần sự trợ giúp của chúng ta? Thưa, nhiều lắm, người thân cận của chúng ta không ở đâu xa, không phải ở tận cung đường “từ Giê-ru-sa-lem lên Giê-ri-cô”, nhưng là ở ngay bên cạnh chúng ta, họ là người hàng xóm, họ là đồng nghiệp, tất nhiên, họ cũng là những người có liên hệ tự nhiên chặt chẽ với chúng ta, như cha mẹ với con cái, vợ chồng, anh em… rất nhiều, rất nhiều và rất nhiều.

Chúng ta không chỉ quan tâm đến họ về mặt “thuộc thể”, như giúp đỡ tiền bạc vật chất, nhưng còn phải quan tâm về mặt “thuộc linh”, tinh thần, đức tin.

Đúng vậy, qua lăng kính thần học, Lm. Charles E. Miller chia sẻ rằng, “Tội lỗi ‘mai phục’ trên đường đi của nhân loại, chực tước đoạt nhân phẩm của chúng ta, trấn lột chúng ta và cướp đi ân điển của Thiên Chúa. ‘Tội’ đánh đập ta nhừ tử, rồi bỏ mặc ta dở sống dở chết. Chúa Giêsu đến nâng ta dậy, không phải để đặt lên lưng một con vật nào đó, mà là lên vai của Người và đưa ta về ngôi nhà Giáo Hội. Nơi đây, chúng ta được chăm sóc cho đến lúc Người lại đến trong vinh quang trong ngày chúng ta được sống lại”.

Với lời chia sẻ này, ngoài việc “thương xác bảy mối” chúng ta còn phải “thương linh hồn bảy mối”. Vì trên thực tế, còn đó rất nhiều người đang cần ta giúp đỡ phần linh hồn. Họ chẳng khác gì người nạn nhân trong dụ ngôn. Họ bị ma quỷ trấn lột, lấy mất những tài sản thuộc phần thiêng liêng. Họ bị đánh trầm trọng, không bằng tay chân, nhưng bằng những chủ thuyết lệch lạc, đại loại như chủ thuyết vô thần, đầy sự lừa lọc và dối trá, hoặc bằng những thú đam mê dục vọng, bằng tiền tài danh vọng, hay bằng một nền văn hóa sự chết. Họ bị bỏ lại bên ngoài Giáo Hội. Họ đang cần chúng ta “chạnh lòng thương”, họ cần chúng ta giúp đỡ, không bằng “hai quan tiền” nhưng bằng sự hy sinh, hãm mình và nhất là bằng lời cầu nguyện, vì như lời Chúa Giê-su nói, “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”(x.Mc 9, 29)

Đừng quên, tông đồ Phao-lô có nói: “Anh em không mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ yêu thương, vì ai thương yêu, người đó giữ trọn lề luật”. Thế nên, đã là một Ki-tô hữu, chúng ta phải là “người Samari tốt lành”.

Cuối cùng, sẽ là tốt hơn nữa khi chúng ta biết cách “tỏ ra là người thân cận”, nói rõ hơn, đó là chúng ta “có lòng cảm thương trong con tim”, vì như thế chúng ta sẽ  “có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai đang cần sự trợ giúp”.

Với lời khuyên trên đây, đó cũng là lời khuyên của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, nên chăng, chúng ta cũng nên “hãy đi, và cũng hãy làm” như ông chủ quán trọ?

Đây, chúng ta hãy nhìn xem cung cách xử sự của ông chủ quán trọ, một cung cách xử sự “đầy lòng cảm thương”.  Chỉ được trao cho “hai quan tiền” với một người thương tích trầm trọng, vô  danh, không có lý lịch rõ ràng và có thể gây cho mình rắc rối về pháp lý nếu chẳng may nạn nhân chết,  thì đúng là ông chủ quán đã nhận lãnh một “của nợ”.

Vâng, có lẽ trên khắp thế gian này, chỉ có ông chủ quán này dám “xâm mình” làm công việc không phải chuyên môn của mình, biến quán trọ thành bệnh viện mới ghê chứ! Ghê hơn nữa, chỉ là chủ quán trọ chứ có là bác sĩ đâu?

Chưa hết, ông ta còn nhẹ dạ cả tin. Chẳng có gì chắc chắn khi người Samari sẽ trở lại thanh toán chi phí như lời ông ta hứa. Mà, chi chí cho điều trị nạn nhân này chắc hắn không thể là ít. Nạn nhân thì bị “lột sạch” hết rồi. Khi đó ông chủ quán trọ chỉ còn biết thở than: “Nghĩ điều trời vực thẳm sâu. Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm”.

Ấy thế mà, ông chủ quán trọ vẫn nhận lời. Sự nhận lời của ông ta đã giúp cho lòng thương xót của người Samari được trọn vẹn. Vì thế, tại sao chúng ta không “hãy đi, và cũng hãy làm” như ông ta?

“Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Đó là lời Đức Giê-su đã truyền dạy. Tất nhiên, để thực hiện điều truyền dạy của Ngài trong thực tế  hôm nay, (một thực tế không tiện nêu ở đây), chắc chắn không phải là một điều dễ dàng.

Vì thế, chúng ta cần đến “ơn và sức của Thiên Chúa”. Với ơn của Đức Giê-su, với sức mạnh của Thánh Thần, chúng ta đủ can đảm thực thi lời Chúa truyền dạy.

Cuối cùng, về phần chúng ta, đừng sống ích kỷ nữa, nếu có. Hãy nhớ lời Đức Giê-su dạy: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh  em cũng hãy làm cho người ta” (x.Mt 7, 12)

Lời Ngài dạy (nêu trên) chính là tiền đề để chúng ta “đi và làm”, đi và làm như người Samari, như ông chủ quán trọ. Vâng, đã là một Ki-tô hữu, chúng ta phải “đi và làm như vậy”.

Petrus.tran

 

Trả lời