Hôm nay, tôi đã thấy Chúa?

Hôm nay, tôi đã thấy Chúa?

Hôm nay, tôi đã thấy Chúa?Chúng ta đang trong mùa Phục Sinh. Thưa bạn, bạn đã thấy Chúa Giê-su Phục Sinh chưa? Có người đã thấy, đó là bà Maria Mác-đa-la.

Theo những gì Kinh Thánh thuật lại thì, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mác-đa-la đi ra mộ. Khi đến mộ, bà ta thấy “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”. Rồi khi nhìn vào trong mộ, bà thấy “hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài Đức Giê-su”. Khi quay lại bà thấy Đức Giê-su, nhưng bà lại tưởng đó là người làm vườn. Cho đến khi nghe được tiếng Đức Giê-su gọi tên mình “Maria”, bà mới nhận ra và cất tiếng trả lời “Rapbuni – Lạy Thầy”. Và cuối cùng, nghe lời truyền dạy của Đức Giê-su, bà ta trở về gặp các tông đồ và nói “tôi đã thấy Chúa”

Vâng, những gì bà Maria Mác-đa-la đã thấy chính là tiền đề cho niềm tin Đức Giê-su – “Người  đã sống lại thật”.

“Người đã sống lại thật”, hai mươi thế kỷ đã trôi qua, Giáo Hội Công Giáo luôn trung thành với niềm tin này. Mỗi ngày Chúa Nhật, người tín hữu Công Giáo đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ, sau phần Phụng Vụ Lời Chúa, tất cả cộng đoàn cùng tuyên xưng – tôi tin Đức Giêsu Kitô “Người chịu đóng đinh vào thập giá dưới thời Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng. Ngày thứ ba Người sống lại đúng như lời Thánh Kinh”.

Thế nhưng, với các tông đồ xưa, để tin vào sự kiện Đức Giêsu sống lại, không giản dị chút nào, các ông, khi đó, vẫn đang ngụp lặn trong sự âu lo và sợ hãi.

Âu lo vì thần quyền, là nhóm thượng tế và các kỳ mục, họ mua chuộc nhóm lính tung tin đồn rằng “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác”. Tin đồn đó như sợi dây thòng lọng  sẵn sàng xiết vào cổ các môn đệ bất cứ lúc nào.

Còn sợ hãi ư! Vâng, như người ta thường nói “ngoại cảnh chi phối nội tâm”. Đúng thế, những lời tuyên truyền dối trá đó đã tác động rất lớn đến các ông. Tác động đến độ, các ông, ai nấy đều “sợ người Do Thái” (Ga 20,19).

Đó là chưa nói tới nhóm thế quyền Roma. Họ, đâu đó vẫn cài cắm những con mắt cú vọ theo dõi nhất cử nhất động nhóm môn đệ của Đức Giêsu.

Dẫu vậy, các môn đệ vẫn cứ hy vọng đợi chờ. Tính từ hôm thứ-sáu-buồn, ngày Đức Giêsu thọ nạn, cho đến hôm nay là “ngày thứ nhất trong tuần”… trời đã xế chiều. Sắp hết ba ngày rồi! Nhớ đến lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”, các ông không khỏi thở than: Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm!

Thế rồi, vào chiều hôm ấy, đang lúc Phêrô và Gioan suy đi nghĩ lại về hiện tượng lúc buổi sáng ra mộ, chỉ thấy ngôi mộ trống. Còn các người môn đệ khác, vâng, (có lẽ) các ông đang buồn bã cất tiếng ca, ca rằng: “Chiều Chúa Nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu. Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều… Chiều Chúa Nhật buồn, lặng nghe tiếng gió đi về”… thì bất ngờ, một điều không tưởng đã xảy ra.

Nơi ở của các môn đệ quả thật có tiếng-gió-đi-về, tiếng gió của một cuộc thần hiện: “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông”. Mặc dầu nơi các ông đang ẩn náu “các cửa đều đóng kín”. Người đã hiện đến và nói rằng: “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19).

Sau lời chào bình an, khung cảnh đìu hiu của gian phòng nơi các ông tụ tập được nhường chỗ cho sự vui mừng, các ông “vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20, 20). Thầy đó ư! Lời Thầy đã ứng nghiệm rồi sao!

Nhớ lại lời bà Maria Mác-đa-la cho biết “Tôi đã thấy Chúa” và đã “kể lại những gì Người đã nói với bà”, bây giờ các ông mới cảm thấy xấu hổ vì đã “cho là chuyện vớ vẩn” (x.Lc 24, 11). Vâng. Chính Đức Giêsu chứ không là ai khác. “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng, chứng tích của cuộc khổ nạn mà Ngài đã phải trải qua.

Các ông như người chết sống lại. Mà quả thật, các ông sống cũng như chết. Sau cái chết của Thầy Giê-su, các ông mất hẳn phương hướng, chỉ còn sợ hãi và lẩn trốn. 

Và hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh đến, các ông đã được “tái sinh”, tái sinh qua việc Đức Giê-su “thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, một sự tái sinh đúng nghĩa, đó là “tái sinh trong Thần Khí”, một sự tái sinh đủ mạnh để đón nhận niềm tin, tin rằng “Người đã sống lại thật”.

Có một điều thật đáng tiếc, Tôma, hôm đó, vì không có mặt, nên đã không tin sự kiện “Người đã sống lại thật”, mặc cho tất cả các môn đệ đều xác quyết rằng, “chúng tôi đã được thấy Chúa”.

Không tin cũng không sao, nhưng có “sao” là khi ông lớn tiếng thách thức rằng, “Nếu… nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin…”

Để rồi, tám ngày sau, Tôma đã phải giật thót mình khi nhìn thấy Đức Giê-su. Cũng giống như lần trước, mặc cho “các cửa còn đóng kín” Đức Giêsu hiện đến, Ngài đứng giữa các ông, cũng một lời chúc “Bình an cho anh em”, rồi Ngài bảo với ông Tôma rằng, “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.” (Ga 20, 27).

Nghe thế, Tôma đứng sững như hình hài pho tượng, nghĩ đến những chữ “nếu…nếu tôi … nếu tôi…”, có lẽ lúc đó ông ta lẩm bẩm “nếu ngày đó mình đừng (không tin), thì ngày nay có đâu buồn đau, có đâu buồn đau”!!!

Đúng vậy, nếu hôm đó Tô-ma đừng thách thức thì hôm nay ông đâu có phải buồn đau nghe Đức Giê-su nói: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.

Nhìn Thầy Giê-su, một Giê-su bằng xương bằng thịt, với tất cả dấu tích của cuộc khổ hình, sự hồ nghi đã biến khỏi tâm hồn của Tôma, thay vào đó là một tâm hồn tan vỡ, một tâm hồn mở ra, xác tín niềm tin của mình vào Đức Giê-su với lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

**

Thưa bạn, xin hỏi một lần nữa, bạn đã thấy Chúa Giê-su Phục Sinh chưa? Vâng, sẽ có không ít người nói: Đức Giê-su Phục Sinh  đã về trời, nay, làm sao có thể thấy hay gặp Người?

Thật ra, hỏi chỉ để hỏi, với ơn Chúa, ngày nay có một số ít người cũng đã gặp, đã thấy Đức Giê-su Phục Sinh, cách này cách khác. Thánh Nữ Faustina Helena Kowalska như là một ví dụ điển hình.

Vâng, theo sử liệu ghi lại “Ngày 22 tháng 2 năm 1931, chị Faustina Kowalska trong một thị kiến đã được nhìn thấy Chúa Giêsu với những luồng sáng tình thương giãi chiếu từ Trái Tim của Người. Chúa phán bảo chị hãy nhờ vẽ một bức ảnh diễn tả thị kiến ấy với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” Chúa còn gọi chị là Tông Ðồ và Thư Ký của Tình Thương. Chúa ban lệnh cho chị viết Nhật Ký để người khác cũng được hiểu biết và tín thác vào Người.

Trong một loạt các mặc khải từ năm 1931 đến năm 1938, Chúa dạy cho chị biết rằng Tình Thương của Người không có giới hạn và rộng mở cho cả những tội nhân khốn nạn nhất. Chúa ban các phương thế đặc biệt để họ có thể đáp lại Tình Thương của Người trong đời sống, và còn ban cho chị nhiều lời hứa dành cho những ai tín thác vào Tình Thương của Người và sống nhân ái với tha nhân.” (nguồn:www.dongcong.net)

Cũng trong một thị kiến, Chúa Giê-su đã nói với chị Faustina Kowalska rằng “Cha mong có một Lễ Kính Lòng Thương Xót. Ngày Chúa Nhật Thứ Nhất sau Lễ Phục Sinh. Ngày Chúa Nhật này phải là ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót. Cha ước mong các linh mục loan truyền tình thương vĩ đại này của Cha cho các linh hồn những tội nhân. Để tội nhân đừng sợ tiến đến với Cha…”. Và đó là lý do, hôm nay, Chúa Nhật II – Phục Sinh, toàn thể Giáo Hội long trọng “kính lòng thương xót Chúa”.

Bạn có biết nhờ đâu chị  Faustina Helena Kowalska “gặp Chúa – thấy Chúa”? Thưa, đó là nhờ chị ta có lòng sùng kính “bí tích Thánh Thể”, đến nỗi hầu như mọi trang nhật ký của chị đều có nhắc đến bí tích này.

Vâng, Đức Giê-su vẫn ở cùng chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài ở ngay trong “bí tích Thánh Thể”, Ngài còn ở ngay bên cạnh chúng ta, đó là những người nghèo hèn đói khát, những người bệnh tật yếu đau,  những người thân cô thế cô v.v… là những người được Ngài gọi là “anh em bé nhỏ nhất của Ta”.

Chính vì thế, chỉ cần một cử động, cử động của đôi chân bước lên “bàn Tiệc Thánh”. Chỉ cần một cử động, cử động của tâm hồn, đón nhận “Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô”, là chúng ta có thể “thấy Chúa – gặp Chúa”.

Bí tích Thánh Thể, như chúng ta  biết, còn được gọi là “bí tích Tình Yêu”. Chính vì thế, chỉ cần một cử động, cử động của đôi chân, “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an nhòa vào nơi tranh chấp. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm”, là chúng ta có thể “thấy Chúa – gặp Chúa”.

Còn nữa, bí tích Thánh Thể còn được gọi là “bí tích Hiệp Thông”, chính vì thế, chỉ cần mở tấm lòng cảm thông trước sự nghèo khổ của tha nhân, cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt, là chúng ta có thể “gặp Chúa – thấy Chúa”.

Hãy nhớ rằng, Đức Giê-su đã nói, khi chúng ta làm những việc nêu trên, dù chỉ làm cho một kẻ bé nhỏ nhất, là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.

Vâng, hãy để một phút thinh lặng, và tự hỏi, đã bao nhiêu mùa Phục Sinh đi qua, tôi đã “Làm cho chính Chúa”, một việc nào đó, chỉ cần một việc nào đó nêu trên, chưa?

Hy vọng tôi và bạn có làm, đã làm.  Hãy làm ngay bây giờ, bởi,  đó chính là cách tốt nhất để  đem “lòng thương xót Chúa” đến với mọi người. Hãy làm ngay hôm nay, bởi, nếu có ai hỏi: là một Ki-tô hữu, bạn thấy Chúa chưa? Lúc đó, tôi và bạn sẽ không phải hổ thẹn, ngược lại, chúng ta có thể tự hào, tất nhiên là tự hào trong Chúa, mà nói: “Hôm nay, tôi đã thấy Chúa”.

Petrus.tran

Trả lời