Hãy đứng lên đi về cùng Chúa

 

Hãy đứng lên đi về cùng ChúaThiên Chúa, theo lời dạy của Kinh Thánh, thì “Người là Đấng từ bi nhân hậu chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi”.

Chính sự nhân hậu và giàu tình thương mà Thiên Chúa “… chẳng vui gì khi  kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (x.Ed 33, 11)

Mà, thật vậy, suốt chiều dài lịch sử con người, Thiên Chúa đã xử sự với con người đúng như những gì ngôn sứ Edekiel đã nói.

Thời Cựu Ước, trường hợp vua David  như một điển hình. Chuyện kể rằng, ông ta đã phạm tội ngoại tình với bà Bát-sa-bê, và sau đó lại dùng âm mưu giết chết Uria, chồng bà Bát-sa-bê, để che dấu tội mình.

Tội ác rành rành như thế,  thế mà Thiên Chúa vẫn không phạt ông ta tội chết, Người đã sai tiên tri Nathan đến, đến để kéo ông ra khỏi vùng lầy tội lỗi.

Trước mặt tiên tri Na-than, Vua David  đã “thay đổi đường lối” của mình và thú nhận: “Tôi đã phạm tội cùng Chúa”, nghe xong ngài Nathan đáp ngay “Chúa đã tha tội cho vua rồi”.

Chúa đã tha cho David, bởi Người  là một Thiên Chúa chậm giận và giàu tình thương. Tình thương đó đã làm sáng mắt vua David, để rồi ông ta  đã phải nhìn nhận rằng: “Người đã kéo con ra khỏi vực thẳm âm ty”.

Vâng, Thiên Chúa, bất cứ vào thời đại nào, Người luôn muốn “kéo con người ra khỏi vực thẳm âm ty”. Và đó là lý do mà trong những ngày còn tại thế, Đức Giê-su đã dùng rất nhiều dụ ngôn, những dụ ngôn rất đời thường để mở mắt cho thiên hạ nhìn thấy một Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi con người “từ bỏ đường lối xấu xa” của mình, mà trở về đường ngay nẻo chính.

Một trong những dụ ngôn đã khiến cho nhiều người phải thổn thức về sự bao dung, nhẫn nại và giàu tình thương của Thiên Chúa, đó là “Dụ ngôn người cha nhân hậu”.

Vâng, qua ngòi bút điêu luyện của thánh sử  Luca, dụ ngôn đó đã được ghi lại như sau: “Một người kia có hai con trai”.

Hai cậu quý tử ư! Ôi, quả là đẹp đôi theo quan niệm của chúng ta thời nay. Thế nhưng, thật đáng tiếc đối với gia đình này. Một trong hai người con đã làm cho vẻ đẹp này tan nát. Đó là người con thứ. Chẳng biết anh ta mắc chứng gì mà lại yêu sách đòi người cha chia gia tài. Vâng, rất lễ phép, anh ta nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”.

Phần tài sản con được hưởng ư! Ơ hay! Đúng là ngông cuồng. Tại sao lại gọi là ngông cuồng? Thưa, là bởi, theo luật Do Thái, việc này, mà người đòi lại là “con thứ” trong gia đình, thì quả đó là một hành động hiếm thấy, nếu không muốn nói là phạm luật. (x. Đnl 21, 17). Còn với quan niệm Việt Nam, thì đó là một hành động bất hiếu, muốn cha mình chết sớm.

Ấy thế mà, người cha vẫn không một lời càm ràm. Ông ta làm theo đúng lời thỉnh cầu của người con thứ. Chuyện kể rằng: “người cha đã chia của cải cho hai con”.

Được chia gia tài rồi cậu quý tử nhà ta làm gì? Vâng, chúng ta có thể tưởng tượng, tưởng tượng rằng cậu ta rất vui mừng cất tiếng ca, những  tiếng ca như một lời giã từ người cha, rằng: “Cha ơi! khi nào ai hỏi đến tên con. Thì cha cứ nói nó đi xa rồi”…

Đúng vậy, được chia gia tài rồi, “ít ngày sau, người con thứ gom tất cả rồi trẩy đi phương xa”. Đi phương xa mở công ty hay lập doanh nghiệp! Thưa không, “Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”.

Với lời mô tả này, chúng ta có thể nghĩ rằng, cậu ấm nhà ta có nét ăn chơi cũng không kém cạnh chàng bạch công tử ở miền tây nam bộ, khi xưa.

Và, nếu quả là như thế, thì, như lời Kinh Thánh nói, người con thứ đã để cho “Đôi chân nó đi vào cõi chết, nó thẳng đường bước tới âm ty”(Cn 5, 5)

Thật vậy, chàng ta đã đối diên với cái chết… “chết đói”. Người con thứ đói vì tài sản được chia đã “ăn tiêu hết sạch”, đồng thời “lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp”.

Và, như người xưa có nói “đói đầu gối phải bò”, người con thứ, đói quá, nên anh ta đã “bò” đến một trang trại xin ở đợ. Chủ trang trại là “một người dân trong vùng, người này sai anh ta ra đồng chăn heo”. Bên đàn heo, trong cơn đói quằn quại, anh ta “ước ao lấy đậu muồng heo ăn nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho ăn”…

Chìm trong tủi nhục, vâng, rất nhục vì người Do Thái coi heo như là một vật dơ bẩn, luật cấm không được ăn.

Thế là anh ta “hồi tâm và tự nhủ: biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta lại ở đây chết đói!” Trong một cơ thể bắt đầu vật vã vì đói khát, anh ta nghĩ, hay là: “…Ta đứng lên đi về cùng cha, và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.

Chỉ xin “làm công”, chẳng lẽ cha mình không cho sao! Và rồi, trong niềm tin vào lòng thương xót của người cha: “anh ta đứng lên đi về”.

Anh ta… anh ta đứng lên đi về, và chắc hẳn anh ta nghẹn ngào cất tiếng ca bài “Come Back To Sorrento Trở về mái nhà xưa”, giọng ca của anh ta thoát ra đầy sự tủi nhục:  “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. Về đây với mầu gió ngày lang thang. Về đây xác hiu hắt lạnh lùng. Ôi lãng du quay về điêu tàn”.

Thật vậy, sau bao ngày lãng du, nay anh ta quay về nhà trong một thể xác điêu tàn.

Còn người cha thì sao! Thưa, ông ta đúng là một người cha đầy lòng nhân hậu và bao dung. Ở nhà, người cha vẫn trông mong và hy vọng một ngày nào đó, con ông sẽ hồi tâm trở về. Ông chỉ nghĩ đến đứa con, mà không nghĩ đến hành động trịch thượng của nó.

Quả thật, sự trông mong và hy vọng của ông đã thành sự thật. Cậu quý tử đã về. Và, lúc “anh ta còn ở xa, thì người cha đã trông thấy”. Ôi, nhìn cậu quý tử nay chỉ còn là một tấm thân tiều tụy…. Chạnh lòng thương, tấm lòng người cha tràn ngập sự độ lượng. Và rồi, ông, chính ông ta, đi bước trước. Ông ta đã “chạy ra ôm cổ anh ta hôn lấy hôn để”.

Thật tuyệt vời! đó là một “nụ hôn” của lòng thương xót. Lòng thương xót của người cha đã làm cho người con nức nở nghẹn ngào, nghẹn ngào với những lời thống hối xót xa: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”. (x.Lc 15, 21)

Không! Không đời nào… Con ta vẫn là con ta… Vâng, đó là sự thật. Sự nhân hậu và độ lượng của người cha, đã biến tâm hồn cô đơn buồn nản của ông, trở thành một tâm hồn “chan chứa tình thương”. Nỗi buồn của tang tóc đã được biến thành niềm vui, niềm vui con ông ta nay đã trở về.

Chúng ta vừa nghe  dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Dụ ngôn này, chẳng có gì khó hiểu. Nhắm mắt, chúng ta cũng có thể nói rằng, người cha nhân hậu, trong dụ ngôn, chính là Thiên Chúa, một Thiên Chúa “ghét tội” nhưng không “ghét tội nhân”.

Thì đây, chúng ta hãy nhìn cách hành xử của người cha trong dụ ngôn. Ông ta, vâng, ông ta không màng gì đến lời thú tội của người con thứ. Trái lại, ông ta đã bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để ăn mừng”.

Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, khi thực hiện những lệnh truyền này, người cha đã phục hồi quyền làm con cho chàng quý tử. Có  một bài thánh ca cổ có những lời sau đây: “Hết thảy các con cái Chúa đều mang dép” (nguồn : internet).

Vâng, thật đáng để người cha làm như thế, bởi theo cái nhìn của ông lúc đó, ông cho rằng:  “con ông đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

Thánh Phao-lô, một người cũng đã nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, đã có lời nhận định, rằng: “Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người” (x.1Tim 1, 16).

Với lòng đại lượng, Thiên Chúa, Người quên tức khắc, quên vô điều kiện tội lỗi của chúng ta, chỉ cần kẻ hối nhân hồi tâm, hối cải trở về, và “từ nay đừng phạm tội nữa”.

Trở lại câu chuyện dụ ngôn, câu chuyện xoay quanh ba nhân vật, và đó là những nhân vật, rất có thể sẽ là điển hình cho cuộc sống của chúng ta. Rất có thể, trong một khoẳng khác nào đó của cuộc đời, ta là một trong ba nhân vật đó.

Rất có thể, ta là người cha. Lúc đó, ta sẽ xử sử thế nào với người con thứ?  Phải chăng là buông ra những lời chì chiết! Phải chăng là sẽ nói với người con thứ rằng: Mày là thứ khôn nhà dại chợ! Cóc chết ba năm quay đầu về núi?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, thật ích lợi khi chúng ta nghe Ronald Rolheise, qua một bài giảng, đã có lời chia sẻ: “Có một câu hỏi lâu đời về lòng nhân lành của Chúa, nó lâu đời cũng như tôn giáo chúng ta: Làm sao một Thiên Chúa toàn thiện lại có thể đày người nào đó xuống hỏa ngục muôn đời? Làm sao Thiên Chúa đầy yêu thương và độ lượng mà lại có hình phạt đời đời?

Đó là một câu hỏi sai. Thiên Chúa không đày bất cứ ai xuống hỏa ngục và Thiên Chúa cũng không tạo ra hình phạt đời đời. Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống và lựa chọn thuộc về chúng ta để đón nhận hay từ chối nó.

Đức Giê-su nói cho chúng ta biết Thiên Chúa không phán xét bất cứ ai. Chỉ có chúng ta mới phán xét nhau.” (nguồn: internet)

Thật vậy, Đức Giê-su cũng đã có lời tuyên phán: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải là để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.

Khi nói đến việc lên án ai, nên chăng chúng Ta cùng nghe lại lời tuyên phán của Đức Giê-su trong câu chuyện người phụ nữ ngoại tình. Hôm ấy, người ta đem đến Ngài một người phụ nữ ngoại tình. Họ nhờ Ngài xét xử. Và, Ngài đã đưa ra lời xét  xử rằng:  “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc  lấy đá mà ném trước đi.”

Nhắc lại lời nói này của Đức Giê-su để chúng ta nói đến người con cả. Người con cả liệu có “sạch tội” không? Thưa, theo những gì thánh Luca  tường thuật, ta có thể nói rằng, anh ta đã mắc tội “ganh tỵ và oán trách”. Anh ta ganh tỵ với người em của mình với những lời chì chiết rằng: “Thằng con của cha, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng”.

Và trước đó anh ta đã oán trách cha mình, oán rằng: “đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để con ăn mừng với bạn bè”.

Vâng, đây là một lời oán trách trẻ con.  Người anh cả quên rằng, người cha cũng đã chia gia tài cho anh kia mà. Nay, người em thất bại trở về, thế mà anh ta lại kèn cựa. Lẽ ra, anh ta nên “thơm thảo” cho người em chút ít tiền làm vốn mới phải đạo, phải không, thưa quý vị!

Vâng, có một thực tế là chúng ta luôn ganh tỵ về ơn phước Chúa ban cho, người này nhiều hơn người kia. Đừng quên, quyền ban ơn phước là quyền của Thiên Chúa.

Thế nên, nếu chúng  là người con cả, hãy tôn trọng quyền quyết định của người cha. Dưới con mắt đức tin, người cha (là Đức Giê-su), “chẳng lẽ… lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của (ông ta) sao?” (x.Mt 20, 15)

Thế còn, nếu chúng ta là người con thứ? Biết đâu là vậy! Biết đâu,  trong sự bồng bột của tuổi trẻ, với tính kiêu ngạo cố hữu mà nguyên tổ để lại, chúng ta khước từ “ngôi nhà” Giáo Hội với đầy tín điều cổ hũ, để đến một miền đất xa lạ, miền đất của những thứ chủ nghĩa lệch lạc, sống buông thả với viện dẫn đó là giá trị của sự tự do v.v…?

Thế giới hôm nay, một thế giới đang cổ súy cho một lối sống hưởng thụ,  cổ súy cho một nền văn minh sự chết, như: tự do phá thai, hôn nhân đồng tính,  một thế giới đang dụ dỗ chúng ta bằng những lời kêu gọi đầy tính tự mãn, kiêu căng, đại loại như: “Thiên Chúa đã chết rồi”.

Đừng bao giờ kiêu căng đến độ để chúng ta rơi vào những lầm lạc với những ảo tưởng đó. Mà, nếu có, hãy coi đó như là một tai nạn trong sự lựa chọn của đời mình. Lúc đó, đừng để chủ nghĩa “chủ bại” ngự trị trong tâm hồn ta, để rồi buông xuôi tất cả, với lập luận “tay lỡ nhúng chàm”.

Hãy nhớ, Đức Giê-su có nói: “Trên trời… ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn”.

Mà ai trong chúng ta lại không phạm tội… như lời thánh Phao-lô đã nói với cộng đoàn Roma rằng: “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất hết sự vinh hiển của Đức Chúa Trời”. Thiếu mất hết sự vinh hiển của Đức Chúa Trời thì chỉ có lãnh tội chết.

Thế nên chúng ta rất cần đến sự hồi sinh, và muốn được hồi sinh, hãy từ bỏ lối sống xấu xa của mình như người con thứ đã từ bỏ.

Từ bỏ lối sống xấu xa của mình rồi, cứ tự nhiên “đứng lên đi về cùng Cha”.  Nếu chúng ta là người con thứ, nói theo cách nói hôm nay, đó là: “Hãy đứng lên đi về cùng Chúa”.

Petrus.tran

 

Trả lời