Đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma…

 

 

Đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma…“Chúa đã sống lại thật rồi”. Sự kiện này đã  được  các môn đệ nói với ông Tô-ma, rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Thế nhưng, Tô-ma vẫn chưa tin.

Không hiểu từ bao giờ, cứ mỗi mùa lễ Phục Sinh, nhắc đến Tô-ma, người ta thường nói, ông là kẻ “cứng lòng tin”. Có người còn phong cho ông là “ông tổ” chủ nghĩa thực chứng.

Có phải thế không? Hay, tất cả mười môn đệ còn lại đều cứng lòng như ông? Thưa, Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, qua  trình thuật Tin Mừng Gio-an, sẽ cho chúng ta câu trả lời chính xác. (Ga 20, 19-31).

Vâng, theo thánh sử Gio-an kể lại, thì, chuyện xảy ra vào chiều ngày thứ nhất trong tuần. Hôm đó, các môn đệ của Đức Giêsu tụ họp trong một ngôi nhà. Các ông vẫn chưa thoát khỏi sự bàng hoàng về cái chết của Thầy mình. Các ông vẫn chìm  trong sự  sợ hãi và hoang mang..

Làm sao không sợ hãi khi nhóm thượng tế và các kỳ mục đã nham hiểm cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, vào ban đêm “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác” (Mt 28, 13).  Vào thời đó, trộm xác là một tội rất nặng. Cho nên, hôm đó, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.

Còn hoang mang ư! Vâng, hãy nhìn xem, nếu được tính từ hôm “thứ sáu sầu thảm”, là  ngày Đức Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự tại núi Sọ, nay đã quá bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Sắp hết ba ngày rồi… Thế mà, lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31)… Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm!

Vâng, đang lúc tâm hồn các môn đệ  “…như lá úa trong cơn mê chiều, nhiều cơn gió cuốn xoáy xoay trong hồn và cơn đau này vẫn còn đây”, thì… không ai có thể tin được, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”.

Thầy đó ư! Lời Thầy đã ứng nghiệm rồi sao! Thưa, đúng vậy. Sự hoang mang và ngờ vực, sự sợ hãi và lo lắng của các ông được nhường chỗ cho: “niềm vui mừng vì được thấy Chúa”. Chính Đức Giêsu, chứ không là ai khác, “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng.

Hôm đó, thật đáng tiếc, thiếu vắng tông đồ Tôma. Chính sự vắng mặt của ông đã khiến ông không tin sự kiện Đức Giêsu hiện đến với các bạn đồng môn của mình. Ông ta quan niệm, rằng: “Bách văn bất như nhất kiến – Trăm nghe không bằng một thấy”.

Thế nên, dù đã được các bạn đồng môn quả quyết “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông vẫn không tin. Không tin, ông còn lớn tiếng nói rằng “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Tám ngày sau, cũng giống như lần trước, mặc cho “các cửa còn đóng kín” Đức Giêsu hiện đến, Ngài đứng giữa các ông, cũng một lời chúc “Bình an cho anh em”, rồi Ngài bảo với ông Tôma rằng, “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.” (Ga 20, 27).

Nghe thế, Tôma đứng sững như hình hài pho tượng, nghĩ đến những chữ “nếu… nếu tôi… nếu tôi…”, có lẽ lúc đó ông ta lẩm bẩm “nếu ngày đó mình đừng (không tin), thì ngày nay có đâu buồn đau, có đâu buồn đau”!!!

Đúng vậy, nếu hôm đó Tô-ma đừng thách thức thì hôm nay ông đâu có phải buồn đau nghe Đức Giê-su nói: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Nhìn Thầy Giê-su, một Giê-su bằng xương bằng thịt, với tất cả dấu tích của cuộc khổ hình, sự hồ nghi đã biến khỏi tâm hồn của ông, hình ảnh một Đức Giê-su Phục Sinh rõ mồn một trước đôi mắt ông. Và rồi, ông đã cất tiếng nhìn nhận Đức Giê-su chính là: “…Chúa của con, …Thiên Chúa của con” (x.Ga 20, 28).

Trước sự cứng lòng tin của Tô-ma, Đức Giê-su chỉ nói với ông một câu “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.”Phải chăng, đây là lời Đức Giê-su trách cứ ông Tô-ma?

Thật ra, đâu chỉ có mình Tô-ma cứng lòng tin. Còn đó là cả nhóm mười người trong họ, dù đã nghe bà Maria Mác-đa-la nói “(Chúa) đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin”(x.Mc 16, 11)

Rồi đến hai môn đệ trên đường Emmau, theo lời họ kể, dù đã biết “có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi… ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”… Ấy thế mà, hai vị vẫn chưa tin, họ khăn gói quả mướp trở về Emmau, quê mình.

Thì đây, dù đã đi bên cạnh Đức Giê-su suốt cả buổi chiều, rồi được nghe Ngài diễn giải Kinh Thánh, hai vị vẫn không nhận ra một Đức Giê-su Phục Sinh. Phải đợi đến khi Ngài mở đôi mắt tâm hồn, họ mới nhận ra Ngài qua cử chỉ “bẻ bánh”.

Lại còn bà Maria Mác-đa-la, “Trên đường bà thấy những gì? Xin kể cho chúng tôi nghe”. Vâng, bà ta đã thấy “Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su… Bà tưởng là người làm vườn” (x.Ga 20, 14-15)

Vâng, kẻ đáng trách, chính là cả “Nhóm Mười Một”. Đức Giê-su,  trong một lần tỏ mình ra cho các ông, khi các ông đang dùng bữa, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người trỗi dậy” (x.Mc 16, 14)

Dẫu sao, sự cứng lòng tin của Tô-ma, sự chậm tin của những môn đệ khác, đã chứng minh rằng:  họ không hề là những người có một đức tin “mù quáng, tin đại”, trái lại, họ là những người  có một niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh, đích thực. Nói cách khác, các Ngài đã thật sự gặp được Đức Giê-su Phục Sinh.

Cuối cùng, nhờ sự cứng lòng tin của Tô-ma, nên các ông (và hôm nay là chúng ta) được Đức Giê-su tặng thêm một lời chúc phúc, “Phúc thay những người không thấy mà tin”.

Và bây giờ là đến chúng ta. Là một Ki-tô hữu, sau bao mùa Phục Sinh, hãy để tâm hồn mình một phút trong thinh lặng và tự hỏi, tôi đã tin rằng Đức Giê-su đã Phục Sinh? Tôi đã thật sự gặp Đức Giê-su Phục Sinh?

Nếu ta chưa gặp, phải chăng là vì ta tìm “Người sống ở giữa kẻ chết”? Nói cách khác, phải chăng là vì ta lo mải mê tìm những lạc thú trần gian… tìm những hư danh chóng qua v.v…?

Nếu ta chưa gặp, phải chăng là vì ta không lắng nghe tiếng Chúa Phục Sinh gọi tên mình,  như xưa kia Chúa Phục Sinh đã gọi tên bà Maria Mác-đa-la rằng: “Maria”? Ngược lại, hay ta để đôi tai của mình nghe những tiếng gọi của quyền lực, của danh vọng, của tiền bạc, là những thứ chỉ đưa ta tới chốn thung lũng âm u, nghi ngờ, chết chóc?

Đức Giê-su Phục Sinh không bao giờ ngừng gặp gỡ, cho dù đó có là giờ thứ hai mươi lăm. Cho dù ta chỉ là một người “cứng lòng  tin” trong số cả triệu người đã tin, muốn được gặp Ngài

Để gặp gỡ, sẽ không bao giờ Ngài mệt mỏi bởi thời gian. Sẽ không bao giờ Ngài thất vọng về “con số”, dù đó chỉ là con số một. Thì đây, đã có một Phao-lô tại Damas, một Augustino thành Hippo, một Phanxicô Assisi, một Charles de Foucauld, một Pascal v.v…

Riêng Tông đồ Phao-lô, ngài đã làm chứng điều này. Ngài nói: “Người cũng đã hiện ra với tôi, (trước đó là hơn năm trăm anh em một lượt), là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non”(x.1Cor 15, 8) Đừng bao giờ thắc mắc vì sao tông đồ Tô-ma,  lý do nào ngài đã “vắng mặt”, vào ngày thứ nhất trong tuần,  vì đó là điều không còn cần thiết.

Nếu có hỏi, hãy hỏi mỗi chúng ta hôm nay, rằng:  Lý do nào khiến chúng ta “vắng mặt” trong ngày Lễ Chúa Nhật?

Chúa Giêsu Phục Sinh không quá thiên vị, Ngài vẫn đứng đó, đứng ngay “Bàn Tiệc Thánh” chờ đợi những ai tìm đến gặp Ngài. Ngài vẫn đứng ngoài cửa tâm hồn của ta và nói: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng ta  và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta”(x.Kh 3, 20)

Vâng, để thấy Chúa Giê-su Phục Sinh, để Chúa Giê-su Phục Sinh gọi tên của mình, không nhất thiết phải  tìm  đến “ngôi mộ trống” ở Giê-ru-sa-lem năm xưa. Nơi cần đến, chính là ngôi nhà thờ, tại bàn Tiệc Thánh Thể,  nơi đây, Đức Giê-su Phục Sinh, qua vị linh mục, sẽ nói với chúng ta rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.  Đừng quên, lời phán hứa của Đức Giê-su, cho những ai đến tham dự bàn Tiệc Thánh, rằng “Ai ăn … sẽ được sống muôn đời”.

Thưa bạn, bạn có tin không? Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nghe lời khuyên của  Lm Charles E. Miller, rằng: “Chúng ta đừng để mình trở thành kẻ đa nghi, và cũng đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma”. Vâng, đã là một Ki-tô hữu: “đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma”.

Petrus.tran

 

Trả lời