CN I Mùa Vọng B: Phải tỉnh thức và sẵn sàng

Phải tỉnh thức và sẵn sàng

CN I Mùa Vọng B: Phải tỉnh thức và sẵn sàngCa dao Việt Nam có câu: “Thời giờ ngựa chạy, tên bay”, quả đúng là vậy. Hôm nay, như ngựa-chạy-tên-bay, một năm phụng vụ đã chấm dứt, chấm dứt long trọng bằng thánh lễ kính Đức Giê-su Ki-tô Vua. Một năm phụng vụ mới bắt đầu và theo truyền thống, được bắt đầu bằng Mùa Vọng

Mùa Vọng là gì? Thưa, Mùa Vọng dịch từ tiếng La tinh “Adventus”, có nghĩa là “đến”. Vọng là trông chờ, là mong đợi điều sắp đến. Trông chờ và mong đợi điều gì? Thưa, trông chờ và mong đợi  “Chúa đến’.

Thật ra, Chúa đã đến rồi. Chúa đã đến trần gian cách nay hơn hai ngàn năm. Xưa, tại Belem miền Giu-đê, một tin mừng trọng đại, tin mừng cho toàn dân đã thành sự thật, “Một Đấng Cứu Độ đã sinh ra. Người là Đấng Kitô Đức Chúa”. 

Với chúng ta hôm nay, trông chờ và mong đợi  “Chúa đến” là đến “lần thứ hai”. Người sẽ đến không âm thầm tại một Belem nào đó, nhưng là đến thật uy nghi, “đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”.

Sự trông đợi và mong chờ đó, không tự chúng ta nghĩ ra, nhưng được dựa vào chính lời Đức Giêsu đã tâm tình cùng các môn đệ  trong bữa tiệc ly, rằng: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng, và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được.” (Ga 16, 16…22).

Lời Đức Giê-su, sau này, vào ngày Người lên trời, được xác định một lần nữa trước các môn đệ, bởi những tiếng phán từ trời cao, rằng: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (x.Cv 1, 11).

Chỉ có điều, đã có biết bao nhiêu câu hỏi đặt ra, rằng, “Ít lâu nữa” là bao lâu! Bao lâu thì Người “cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”?

Thưa, về điều này, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ rằng “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không; chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Và để cho các môn đệ không vì sự “bí mật” đó mất đi niềm hy vọng, Ngài có lời khuyên tiếp rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”.

Hồi ấy, song song với những lời khuyên, Đức Giêsu đã mượn một câu chuyện rất đời thường như để giải tỏa nỗi ưu tư, cùng những sự bất an của các môn đệ. Câu chuyện được ghi lại trong Tin Mừng Mac-cô với tựa đề “Phải tỉnh thức và sẵn sàng” (x.Mc 13, 33-37).

Chuyện được kể rằng: Có một người kia trẩy đi phương xa, “để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình”. Trước khi đi, ông ta “chỉ định mỗi người một việc”. Riêng người giữ cửa, ông chủ ra lệnh “phải canh thức”.

Người chủ không cho đầy tớ cũng như người canh cửa biết khi nào ông ta sẽ trở về ngoài những mệnh lệnh cần thiết. Ông chủ không cho biết sẽ trở về vào “lúc chập tối hay nửa đêm”. Ông ta cũng chẳng nói, tôi sẽ về “lúc gà gáy hay tảng sáng”…

Câu chuyện chỉ có thế, nhưng có thể nói, đây là  một câu chuyện rất thiết thực, thiết thực trong bối cảnh của những kẻ phải “đợi chờ”, họ phải đời chờ trong tình trạng tỉnh thức và sẵn sàng.

Nói về sự  “tỉnh thức”, Đức Giê-su nhắc đến năm lần. Và đó cũng chính là lời khuyên được Đức Giêsu dùng để khép lại câu chuyện nêu trên, rằng: “anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ”, và rằng “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức”. (x.Mc 13, 36-37)

**

Có bao giờ chúng ta tự hỏi, những gì Đức Giê-su đã nói trong câu chuyện nêu trên, phải chăng, đó cũng chính là nói với chúng ta hôm nay? Thưa, đúng vậy.

Là một Ki-tô hữu, chúng ta cũng được “Ông chủ Giêsu” trao quyền và “chỉ định cho mỗi người một việc”. Và rất có thể trong số chúng ta, có người được diễm phúc là “người giữ cửa”.

Tuy nhiên, được trao quyền làm “người giữ cửa” hay được chỉ định làm công việc của một “người đầy tớ”, không quan trọng. Điều quan trọng là, khi được trao quyền hoặc chỉ định  một vai trò nào đó, chúng ta có “tỉnh thức” trong lúc thực thi vai trò được trao quyền hoặc chỉ định, hay không.

Vì thế, hãy tự hỏi, nếu được trao quyền là “người mục tử”, chúng ta có tỉnh táo “canh thức”, hầu nhận ra  Ông Chủ Giê-su, dù ông ta có  “cải trang” dưới bất cứ hình thức nào,  và mở cửa đón ông, dù cho ông ta trở về  “lúc chập tối hay nửa đêm…lúc gà gáy hay tảng sáng”, hay không?

Hay…  ta lại “say ngủ” trên danh vọng, trên chức vụ, mơ màng được nổi tiếng, nổi tiếng là người cai quản một giáo xứ, với ngôi nhà thờ trị giá vài chục tỷ đồng? Hoặc, ta đang chìm đắm vào những lo toan, cho những chi phí “nội thất” của ngôi nhà thờ, đại loại như dàn âm thanh “khủng” vài trăm triệu đồng? v.v… Để rồi “bộ nhớ” của ta không còn nhận ra   khuôn mặt độc đáo của Ông Chủ Giê-su, một khuôn mặt được cải trang qua thân phận những con người nghèo khổ, sống trong những căn nhà dột nát, những căn nhà ngập ngụa khi triều cường lên, chung quanh ngôi nhà thờ “triệu đô” của ta, khi Người “đến bất thần”?

Hãy tự hỏi, được trao quyền hoặc được chỉ định những công việc bình thường  giữa một xã hội đời thường, như: thầy thuốc, thầy giáo v.v… Ta có tỉnh táo hầu nhận ra Ông Chủ Giê-su chính là những người bệnh nhân nghèo hèn, chính là những người học trò đang cần một chỗ trong lớp học, hay không?

Hay, ta lại “say ngủ” trên thẩm quyền, trên tiền bạc, rằng “lương y không bằng lương tháng” và rằng, kỹ sư tâm hồn không bằng “quỷ sư của tình lẫn tiền”?

Tất cả những điều nêu trên chỉ là giả thiết. Là một Ki-tô hữu, tất nhiên, không ai trong chúng ta muốn những “giả thiết” đó chính là “kết luận” trong cuộc đời mình.

Muốn vậy, muốn chúng ta không “say ngủ” trong công việc được Ông Chủ Giê-su trao quyền, chỉ định; vâng, hãy đặt trong tâm hồn chúng ta một niềm tin,  tin rằng, mỗi công việc Ông chủ Giêsu giao phó chính là, “ân huệ Người đã ban cho (chúng ta) nơi Đức Kitô Giêsu”(x.1Cr 1, …4)

Có được niềm tin như thế, có lý nào chúng ta “say ngủ”, có lý nào chúng ta hành xử công việc được trao quyền, được chỉ định một cách “mơ màng” vô trách nhiệm!?

Thánh Phaolô đã nói : “Trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người”. (1Cr 1, 5).

Suốt chiều dài lịch sử Ki-tô giáo, chưa có một ai, khi đã “được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” mà lạ “say ngủ”. Trái lại, có phần chắc, lời cảnh báo “phải canh thức” của Chúa Giêsu sẽ “ăn sâu vững chắc vào lòng trí” trong người đó.

Chúng ta hãy nhẫn nại nghe thêm một lời khẳng định của thánh Phaolô, ngài khẳng định rằng “Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa”.

Hãy nhớ rằng, khi đến “Ngày của Chúa”. Vâng, Ngài sẽ xét đoán chúng ta về những gì chúng ta được trao quyền, được chỉ định. Ngài sẽ chất vấn chúng ta về những gì chúng ta đã làm.

Xưa kia, các trẻ mục đồng đã “thức đêm canh giữ” vì thế họ mới có thể nhìn thấy “vinh quang của Chúa chiếu tỏa” (x. Lc 2, 8-9).

Nay, chúng ta cũng “phải canh thức”, canh thức như bà Anna xưa “không rời bỏ Đến Thờ… sớm hôm cầu nguyện, thờ phượng Thiên Chúa”, có như thế, chúng ta mới chu toàn những việc đã được trao quyền, đã được chỉ định.

Cuối cùng, có như thế, khi  “ông chủ Giêsu đến” dù cho có “đến bất thần” chúng ta cũng không sợ gì. Chúng ta, có thể cất tiếng nói, như ông Simeon đã nói khi xưa, rằng “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được bình an ra đi”.

“Ra đi”… đi đâu! Thưa, Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người sẽ kêu gọi chúng ta “đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1Cr 1, 9).

Thánh Phaolô đã xác tín như thế. Còn chúng ta.. chúng ta cũng xác tín như thế! Nếu chúng ta xác tín như thế, quả thật, sự trông đợi và mong chờ của chúng ta về ngày Chúa đến lần thứ hai đã đi đúng quỹ đạo của nó.

Nếu chúng ta xác tín như thế, đừng chần chờ gì nữa, hãy mượn lời của ngôn sứ Isaia, như một lời nguyện của chúng ta, khẩn thiết dâng lên Thiên Chúa, rằng “Lạy ĐỨC CHÚA… Vì tình thương đối với tôi tớ…. Xin Ngài mau trở lại” (x.Is 63, 17).

Trông chờ và mong đợi ngày “Chúa trở lại”, trong tâm tình cầu nguyện như thế, hãy tin, Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh, một sức mạnh đủ để “tỉnh thức và sẵn sàng”.

Petrus.tran

Trả lời